Monday, May 4, 2020

Cách Niệm Ân Đức Phật - Tùy Niệm Phật - Buddhānussati


Buddhānussati hay tùy niệm Phật là pháp tùy niệm đầu tiên trong mười đề mục tùy niệm (Anussati). Nó là sự niệm tưởng đi niệm tưởng lại nhiều lần những ân đức của Phật.
Việc tu tập Niệm Ân Đức Phật này chỉ thành công nơi người có niềm tin tuyệt đối (aveccappasāda), chứ không nơi người khác. Niềm tin tuyệt đối là một trong ba yếu tố đầu của bậc Thánh nhập lưu (S.v. 196). Đó là niềm tin bất động đi kèm với tâm trong sáng do sự hiểu biết đúng về Thánh Đạo tạo ra. Niềm tin này không bị gió tà kiến làm cho lay chuyển. Tuy nhiên, niềm tin giống như niềm tin Thánh Đạo này (Ariya-magga saddhā) cũng có thể được xem như niềm tin tuyệt đối.
Ở đây người hành thiền với niềm tin tuyệt đối muốn thực hành Tùy Niệm Phật nên đi vào độc cư trong một trú xứ thuận lợi và hồi tưởng lại những ân đức đặc biệt của Đấng Giác Ngộ như sau:
“Itipiso Bhagavā
- Arahaṁ
- Sammāsambuddho
- Vijjācaranasampanno
- Sugato
- Lokavidū
- Anuttaropurisadammasarathi
- Satthā devamanussanaṁ
- Buddho
- Bhagavā”
Hành giả nên hồi tưởng đi hồi tưởng lại nhiều lần với sự hiểu biết đúng về các ân đức như sau:
1 - So Bhagavā itipi Arahaṁ
Đức Thế Tôn được gọi là Arahaṁ (Bậc Ứng Cúng) bởi vì ngài đã diệt tận mọi phiền não và và trở thành bậc thánh xứng đáng được các hàng chư thiên, phạm thiên và loài người cung kính.
2 - So Bhagavā itipi Sammāsambuddho
Đức Thế Tôn được gọi là Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri) bởi vì ngài đã tự mình giác tri đầy đủ những pháp cần phái được giác tri.
3 - So Bhagavā itipi Vijjācaraṇasampanno
Đức Thế Tôn được gọi là Vijjācaraṇasampanno (Minh Hạnh Túc) bởi vì ngài có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh tối thượng.
4 - So Bhagavā itipi Sugato
Đức Thế Tôn được gọi là Sugato (Thiện Thệ) bởi vì ngài đã ngự đến nơi ưu việt (tức Niết Bàn) và bởi vì ngài chỉ nói những lời chân thực và lợi ích.
5 - So Bhagavā itipi Lokavidū
Đức Thế Tôn được gọi là Lokavidū (Thế Gian Giải) bởi vì ngài hiểu biết rõ tam giới : chúng sanh thế giới (satta-loka), hữu vi thế giới (saṅkhāraloka) và không gian thế giới (okāsa-loka)
6 - So Bhagavā itipi Anuttaropurisadammasārathi
Đức Thế Tôn được gọi là Anuttaropurisadammasārathi (Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu) bởi vì ngài điều ngự (thuần phục) được những người đáng được điều ngự không ai sánh bằng.
7 - So Bhagavā itipi Satthā devamanussānaṁ
Đức Thế Tôn được gọi là Satthā devamanussānaṁ (Thiên Nhân sư) bởi vì ngài là bậc đạo sư của chư thiên (devas và brahmas) và con người.
8 - So Bhagavā itipi Buddho
Đức Thế Tôn dược gọi là Buddho (Phật) bởi vì ngài đã tự mình giác ngộ và có thể khai sáng cho người khác hiểu rõ Tứ Thánh Đế và trở thành các bậc thánh nhân (Ariyas).
9 - So Bhagavā itipi Bhagavā
Đức Thế Tôn được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) bởi vì ngài là Đấng Tối Thượng và Phúc Đức nhất. Ngài có đầy đủ những đức đặc biệt như sáu loại vinh quang — Issariya (Tự Tại), Dhamma (Pháp), Yasa (Danh Xưng), Sīrī (Cát Tường), Kama (Phương Pháp), Payatta (Nỗ Lực).
Issariya (Tự Tại)— khả năng kiểm soát tâm mình một cách thiện xảo theo ý muốn (tự tại).
Dhamma (Pháp)— khả năng chứng đắc bốn Đạo Trí (magga ñāṇa), bốn Quả Trí (phala ñāṇa) và Niết Bàn (nibbāna), còn gọi là chín pháp siêu thế (Lokuttara dhammas) rất thiện xảo .
Yasa (Danh Xưng) — khả năng làm cho danh tiếng thực sự được lan truyền khắp muôn phương trên toàn cõi nhân giới, thiên giới và phạm thiên giới.
Sīri (Cát Tường)— khả năng để có được một thân hình cân đối và nở nang hoàn chỉnh với diện mạo đáng yêu, đoan trang, và siêu phàm, gồm ba mươi hai hảo tướng và tám mươi vẻ đẹp phụ trên con người của Đức Phật.
Kāma (Ước Muốn)— khả năng thực hiện các năng lực thần thông ngay tức thì theo ý muốn.
Payatta (Nỗ Lực) —nỗ lực tối thượng giúp một người đạt đến tột đỉnh.
Khi người hành thiền niệm tưởng đi niệm tưởng lại nhiều lần các ân đức của Phật như trên, tâm vị ấy sẽ không còn bị ám ảnh bởi tham, sân hoặc si, mà nó hoàn toàn chính trực với các ân đức của Phật như đối tượng của nó.
Khi tâm người hành thiền không còn bị tham, sân và si ám ảnh, vị ấy đè nén được tất cả năm triền cái, và tâm vị ấy hướng về đề mục thiền với sự chính trực. Lúc đó tầm (vitakka) và tứ (vicāra) xuất hiện với sự khuynh hướng về các đức đặc biệt của Phật. Bằng cách suy tưởng trên các ân đức của Phật, người hành thiền tiếp tục vận dụng tầm và tứ, và không bao lâu hỷ (pīti) sẽ sanh khởi trong vị ấy.
Với tâm tràn đầy hân hoan, và với hỷ như nhân gần, những trạo cử của thân và tâm được lắng dịu bằng tịnh (passaddhi). Khi các trạo cử đã được lắng dịu, lạc (sukha) cả ở thân và tâm sanh khởi. Khi có lạc, tâm vị ấy trở nên định tĩnh với các ân đức của Phật như đối tượng của nó. Và vì thế, cuối cùng các thiền chi sanh khởi trong một sát-na duy nhất.
Tuy nhiên, vì các ân đức của Phật vô cùng thâm sâu, và do người hành thiền phải dành hết thời gian để niệm tưởng nhiều loại ân đức Phật, nên thiền chỉ có thể đạt đến cận định chứ không an chỉ. Nói cách khác, cận định (upacāra-samādhi) là định cao nhất người ta có thể đạt đến khi hành pháp Tùy Niệm Phật. Và cận định này tự nó cũng được gọi là ‘Tùy Niệm Phật’, vì nó sanh cùng với sự niệm tưởng các đức đặc biệt của Phật kể như phương tiện vậy.
• Cách Tu Tập ‘Buddhānussati’ Nhanh Chóng
Đối với một người đã đắc tứ thiền do nhờ hành Hơi Thở hay Kasiṇa trắng, trước tiên vị ấy nên hành để đắc tứ thiền có ánh sáng rất rực rỡ và thể nhập đi kèm. Với sự trợ giúp của ánh sáng này vị ấy hồi tưởng hay mường tượng một hình tượng Phật mà vị ấy kính ngưỡng. Khi vị ấy thấy bức tượng Phật rõ ràng trong ánh sáng, vị ấy nên đảnh lễ bức tượng ấy, xem đó như một vị Phật thực hiện tiền. Nếu vị ấy đã từng thấy một vị Phật thực trong một kiếp quá khứ nào đó, hình ảnh của Đức Phật đó có thể xuất hiện trong thị lực của vị ấy.
Sau đó vị ấy nên chuyển sự chú ý từ hình ảnh Phật sang ân đức Phật và niệm tưởng ân đức ấy nhiều lần. Nếu hình ảnh của Đức Phật không xuất hiện, vị ấy nên xem bức tượng Phật xuất hiện trong ánh sáng thiền định của vị ấy như Đức Phật thực và niệm tưởng trên ân đức Phật nhiều lần.
Người hành thiền nên niệm tưởng cả chín ân đức Phật theo tuần tự từng ân đức một, và rồi chọn một ân đức nào mà mình thích nhất và niệm đi niệm tưởng lại ân đức ấy nhiều lần— chẳng hạn, ‘Arahaṁ, Arahaṁ’. Khi định của vị ấy tăng trưởng sức mạnh, hình ảnh Phật sẽ biến mất trong khi tâm vị ấy vẫn tập trung trên ân đức đặc biệt vị ấy đang niệm. Nếu sự việc diễn ra như vậy, vị ấy không nên cố gắng nhớ lại hay tìm kiếm hình ảnh Đức Phật; mà chỉ nên tập trung tâm mình trên ân đức Phật là đủ.
Với sự trợ giúp mạnh mẽ của định thuộc tứ thiền, không bao lâu vị ấy sẽ đạt đến cận định trong Tùy Niệm Phật. Khi tâm vẫn tập trung một cách an tịnh trên ân đức Phật trong một giờ hoặc hơn không có bất kỳ sự phóng tâm nào, vị ấy nên khởi quán các thiền chi. Vị ấy sẽ nhận ra rằng mình đã đạt đến cận định vì lúc này vị ấy có thể thấy các thiền chi đã được khéo phát triển vậy.
Sau đó vị ấy nên niệm tưởng các ân đức Phật còn lại theo tuần từ từng ân đức một cho đến khi đạt đến cận định cho mỗi ân đức. Vị ấy cũng nên hành pháp thuần thục đối với cận định này.
• Những Lợi Ích Của Tùy Niệm Phật (Buddhānussati)
Một người hành thiền đã đắc cận định trong pháp tùy niệm ân đức Phật sẽ có được những lợi ích sau:
1- Vị ấy tôn kính Đức Phật, bậc Đạo Sư, với lòng tôn kính vĩ đại.
2 - Vị ấy đạt đến niềm tin đầy đủ nơi Đức Phật.
3 - Vị ấy có được chánh niệm tốt.
4 - Vị ấy phát triển được trí tuệ và sự hiểu biết.
5 - Vị ấy có được nhiều phước báu.
6 - Vị ấy được nhiều hỷ lạc.
7 - Vị ấy vượt qua được sự sợ hãi và khiếp đảm.
8 - Vị ấy có khả năng chịu đựng được khổ đau.
9 - Vị ấy cảm thấy như thể mình đang sống trong sự hiện diện của bậc Đạo Sư.
10 - Thân vị ấy, được những ân đức Phật thấm nhuần và cư trú, trở nên xứng đáng với sự tôn trọng như một tháp thờ xá-lợi.
11 - Tâm vị ấy khuynh hướng về Phật giới.
12 - Khi gặp phải cơ hội có thể phạm vào một ác nghiệp, vị ấy cảm thấy hổ thẹn (tàm) và sợ (quý) phạm vào ác nghiệp ấy như thể đang đứng trước mặt bậc Đạo Sư.
13 - Ngay cả nếu không đắc một đạo quả nào trong kiếp sống này, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một sanh thú an vui.

--- Trích từ: Thiền Định (Samadhi). TK Pháp Thông dịch.