Tuesday, October 30, 2012

THIỀN VIỆN SHWE OO MIN TẠI MIẾN

Một trong những thiền viện có số lượng người Việt tu tập đông nhất, đó là thiền viện Shwe Oo Min. Người viết có dịp đến đây thiền tập một thời gian trước khi tạm giã từ đất Miến !
1. ĐỊA ĐIỂM
Thiền viện nằm khuất trong một góc làng. Phía sau là đồng ruộng. Từ đường lộ vô tới thiền viện mất khoảng 5 - 7 phút taxi. Mặc dầu khu vực nông dân nghèo khổ, nhưng vì thiền viện Shwe Oo Min và các thiền viện khác ở Miến không những được chính quyền tạo điều kiện thuận lợi, được nhân dân địa phương ủng hộ, mà còn được cả Phật tử hải ngoại hỗ trợ nữa, nên đường dẫn vào các thiền viện đều được tráng nhựa cả.
Tên của thiền Viện được dịch sang Việt ngữ là Thiền Lâm Pháp Lạc Shwe Oo Min (Shwe Oo Min Dhammasukha Forest Centre)[1]. Mọi người đều gọi là thiền viện Shwe Oo Min, vì diện tích đất cũng vừa phải, dung chứa từ 250  – 300 thiền sinh. Phía sau là đồng ruộng, không cây cối, nên vào mùa đông, mùa mưa thì mát, nhưng vào mùa hè khá nóng vì gió nóng thổi vào !
Thiền viện nằm cách thủ đô Yangon không xa mấy. Đi xe taxi mất khoảng 45 phút đến một tiếng. Đi một vòng trả khoảng 5 – 7 Mỹ kim. Cây cối của thiền viện cũng đang lớn dần với năm tháng kể từ khi thiền viện khởi công xây dựng từ năm 1996 – 1997, khi Hoà Thượng (HT) thiền chủ Shwe Oo Min ra hướng dẫn thiền tập cho tới nay.
2. THIỀN SƯ SHWE OO MIN
Tiểu sử vắn tắt của HT được khắc trên bia trong phòng thờ Ngài, nơi trước kia Ngài đã ở và hướng dẫn thiền tập vào những năm tháng cuối đời. Tôi được nghe kể lại, cốc Ngài ở lúc bấy giờ đơn giản đến mức thiền sinh học Pháp với Ngài đều cảm thấy khó chịu. Bởi vì tiện nghi sinh hoạt của thiền sinh tương đối đầy đủ, trong khi Ngài sống quá đơn giản, nếu không muốn nói là thanh bần. Sau nhiều lần thưa thỉnh, cuối cùng Ngài mới cho xây dựng phòng cho Ngài, và chính nơi tịnh thất này, Ngài đã xả báo thân. Khi thiền sinh mới tới, phần lớn đều được hướng dẫn tu một tiếng đồng hồ tại tịnh thất của Ngài, xem như là để tưởng niệm ân đức của Ngài.
Rất tiếc, tôi không có ghi lại tiểu sử của HT, nên không nhớ hết để viết lại cụ thể. Bây giờ ngồi đây không có nguồn tài liệu nào để tham khảo cả, chỉ nhớ loáng thoáng và ghi lại vài điểm chính của đời Ngài.
HT Shwe Oo Min xuất gia còn rất nhỏ. Lớn lên theo học thiền với HT Mahāsi  Sayādaw, sau đó được HT giao trách nhiệm hướng dẫn thiền tập khi tuổi đời mới ba mươi mấy. Sau khi cống hiến khoảng 10 năm, HT mới về trú trì một chùa rất nhỏ và chuyên tu ở đó. Sau một thời gian Ngài lại đổi hướng, vô trong núi tịnh tu mấy mươi năm liền. Đến khi tuổi đời đã lớn, cỗ xe tứ đại sắp rã, Ngài vì thương tưởng chúng sanh mà khởi Đại Bi Tâm ra mở trường Thiền dạy Đạo, khi ấy tuổi Ngài đã gần 80!
Trong vòng mấy năm ngắn ngủi mà mọi cơ sở vật chất đều xây dựng gần như hoàn chỉnh. Ngoài ra, Ngài còn đào tạo và lót đường cho một vị đệ tử kế thừa cho sự nghiệp của Ngài nữa. Đến khi duyên trần mãn, Ngài nhẹ nhàng xả bỏ báo thân vào ngày 20 tháng 11 năm 2002.  Quả thật, từ lúc Ngài ra hành đạo đến khi xả bỏ báo thân nhanh quá, như lằn chớp, như tiếng sét trên không rồi vụt tắt, để lại vô vàn kính ngưỡng và quý mến cho bao học trò đệ tử và thiền sinh đã một lần có duyên diện kiến, học Thiền với Ngài !
3. THIỀN SƯ U TEJANIYA
Thiền Sư kế nghiệp HT viện chủ Shwe Oo Min, hướng dẫn thiền sinh tu tập tại thiền viện hiện nay là Thiền Sư U Tejaniya. Thiền Sư còn tương đối trẻ so với các vị Thiền Sư ở Miến. Toàn bộ câu chuyện sau đây của Thiền Sư, tôi được nghe từ các vị Việt Nam ở đó kể lại. Khi HT Shwe Oo Min bắt đầu ra hành đạo, và tìm một người đệ tử nối pháp. Trong số đệ tử xuất gia và tại gia học thiền với Ngài, Ngài lại tâm đắc một nam cư sĩ tại gia đã lập gia đình và có con nhỏ, đó là Thiền Sư U Tejaniya hiện nay. Sau một thời gian ngắn, nhận thấy học trò mình có nhân duyên thiền tập lâu đời, và có khả năng hướng dẫn thiền sinh, Ngài mới khuyên U Tejaniya từ bỏ đời sống gia đình, sống đời sống xuất gia giải thoát. Hai Thầy Trò đã từng có thời gian thiền tập chung trong núi khoảng một năm.
Ngài vốn gốc người Hoa, nên khuôn mặt rất giống người Trung Quốc. Sau khi nếm trải được mùi vị Thiền, Ngài mới bắt đầu học Vi Diệu Pháp (Abhidhamma), và chỉ học những yếu chỉ căn bản, nhất là lộ trình tâm của Đạo và Quả, nhằm giúp cho hành giả biết cách tháo gỡ những trục trặc của mình khi thiền tập hơn là đi vào lý thuyết, chia chẻ, phân tích cặn kẽ mọi thứ. Vốn tiếng Anh của Ngài khá phong phú, nói rất trôi chảy. Có lẽ, điểm độc đáo của Thiền Sư là có khả năng lắng nghe những trục trặc của hành giả, và rất thông cảm cho thiền sinh, căn tánh nào, trình độ nào Ngài cũng tuỳ duyên hướng dẫn cả.
4. CÁCH THỨC THIỀN TẬP
Ngày đầu tiên bước vào thiền viện, cũng giống như bao thiền viện khác, thiền sinh được hướng dẫn tổng quát về thiền tập. Tôi còn nhớ câu đầu tiên của Thiền Sư nói, cách thức tu tập ở đây chú trọng đến Thiền Quán (Vipassanā), và muốn cho Thiền Quán được phát triển thì thiền sinh phải vận dụng sự thông minh của mình…. Câu cuối cùng Ngài khuyên thiền sinh, hãy nên hành pháp với tất cả chân thành và sự kính trọng, có như vậy thì thiền tập mới có kết quả lớn.
Chìa khoá để mở cửa Thiền Quán theo cách dạy của Thiền Sư tại đây giống với nhiều vị Thiền Sư đương đại cũng như trong quá khứ, là phải có Chánh Niệm và Tỉnh Giác trong khi thiền toạ, thiền hành hoặc trong đời sống hằng ngày. Hai chìa khoá song sinh này được lập đi lập lại rất nhiều lần khi Ngài hướng dẫn thiền sinh vào mỗi bữa trình pháp.
Cách thức, tông chỉ tu tập như thế nào được Thiền Sư nói khá rõ trong cẩm nang thiền tập: WHAT IS THE RIGHT ATTITUTE FOR MEDITATION. Quý vị Việt Nam ở đó đã dịch sang Việt ngữ: THẾ NÀO LÀ CÓ THÁI ĐỘ ĐÚNG TRONG KHI HÀNH THIỀN. Tôi sẽ đánh máy lại, kể cả phần Anh ngữ, nhằm giúp cho những ai muốn vào thiền viện này thiền tập có thể tham khảo trước, hoặc có thể vận dụng hằng ngày tại nhà khi có thể.
Trong tập cẩm nang này, những lời hướng dẫn được trình bày thành 27 điều, để  giúp thiền sinh dễ nhớ. Thật ra, đọc 27 điều đó vẫn chưa đủ để thấy hết được tông chỉ như thế nào. Và cho dù ở đó tu một thời gian đi nữa, vẫn không thể thấu triệt những gì Thiền Sư đã kinh qua. Mặc dầu vậy, trong thế giới tương đối, thông tin vẫn là điều cần thiết, để từ đó kiến thức tích luỹ mới có thể có, và trên căn bản này việc tu tập mới có kết quả, tuệ giác mới hiển bày.
Tông chỉ của thiền viện này là Chỉ Quán song tu, nhưng Quán đặt nặng hơn. Cách quán chủ yếu là theo dõi sự sanh diệt, vọng động của tâm thức mình ngay từ khi nó vừa khởi lên, nên một số thiền sinh đặt tên cho nó là “Citta Vipassanā”, thuật ngữ trong kinh tạng viết đúng là “Cittānupassanā”. Cách quán tâm ở đây, theo người viết, rất giống với tông chỉ “Tri Vọng” của HT Thanh Từ. Vọng tới không sợ, mà sợ không đủ tỉnh giác để thấy đó là vọng, để dừng vọng và quay về với chánh niệm ! 
Đề mục khi thiền toạ cũng tuỳ thuộc vào thiền sinh. Nếu thiền sinh nào đã từng quen thuộc với pháp quán niệm hơi thở thì vẫn giữ pháp quán hơi thở đó để làm đề mục chính. Hoặc vị nào đã từng quen với cách niệm phồng xẹp ở vùng bụng của Thiền Sư Mahāsi  Sayādaw và các đệ tử của Ngài chủ trương như thiền viện Panditarāma, Chanmyay Yeikthā thì cứ theo truyền thống đó. Tuy nhiên, cũng có sự khác biệt chút đỉnh trong cách niệm phồng xẹp đó. Theo Thiền Sư, thiền sinh chỉ cần ghi nhận sự phồng xẹp của bụng khi hơi thở vào ra mà không cần phải niệm “phồng à, xẹp à” như truyền thống của HT Mahāsi  Sayādaw. Vị nào đã từng tu theo cách quán niệm cảm thọ toàn thân của Thiền Sư cư sĩ U Bakhin và đệ tử kế nghiệp là N. S. Goenka thì cứ theo truyền thống đó. Khuynh hướng quán cảm thọ từng phần, từng phần trên toàn thân  và như vậy toàn thân được Thiền Sư khuyến khích hơn. Tuy nhiên, vấn đề chính là tâm hành giả có thực sự bám sát đề mục hay là lang thang ở thế giới nào. Nếu đã đi rong chơi đó đây thì cố gắng đem nó về sớm chừng nào tốt chừng đó !
Về tư thế ngồi ở đây cũng giống như bao trường thiền khác ở Miến, không bắt buộc hành giả phải theo một tư thế nào nhất định. Mỗi người tự chọn cho mình một tư thế ngồi cảm thấy thoải mái nhất, có khả năng duy trì chánh niệm và tỉnh giác lâu nhất. Phải thừa nhận chư Tăng Việt Nam và Triều Tiên có công phu thiền toạ khá cao so với các nước khác. Các Sư phần lớn ngồi kiết già hoặc bán già, lưng thẳng với y phục trang nghiêm trông rất đẹp. Thời gian ngồi ở đây tiêu chuẩn là một tiếng, nhưng một số Sư đã gia tăng từ một tiếng đến hai tiếng với tư thế kiết già. Đó cũng là một dấu hiệu tiến bộ trong thiền định, đòi hỏi sự gia công tu tập của hành giả rất nhiều!
Khi thiền hành thì vận dụng theo truyền thống của Ngài Mahāsi , nghĩa là qua 3 giai đoạn hoặc 6 giai đoạn mà tôi đã dịch trong NHỮNG NGUYÊN TẮC CĂN BẢN CỦA THIỀN QUÁN  do HT Sayādaw U Janaka hướng dẫn tại Thiền viện Chanmyay. Nhưng ở đây thiền sinh được hướng dẫn không nhất thiết phải đi thật chậm như các trường thiền đó, mà đi với tốc độ bình thường, hoặc chậm hơn bình thường một chút là đủ. Tuy nhiên, vị nào đi thật chậm cũng không sao, quan trọng là theo dõi được tâm của mình như thế nào, và khi đi có ghi nhận được các cảm giác xúc chạm của chân và các phản ứng của tâm với ngoại giới hay không ?
Ngài cũng khuyến nhắc các thiền sinh mới vào nên giữ im lặng nhiều chừng nào tốt chừng nấy. Trong trường thiền, vài câu khuyến nhắc sự nguy hại của nói chuyện được dán đây đó, giúp thiền sinh rất nhiều: “Nói chuyện có thể phá vỡ chánh niệm. Chúng ta hãy tránh nói chuyện để khỏi quấy rầy người khác và cũng để khỏi quấy rầy chính mình.” (Talking can seriously damaged mindfulness. Let’s avoid talking in order to not disturb others as well as yourself). Hoặc vẽ một biểu tượng, một hành giả đang nhắm mắt thiền toạ, miệng bịt lại, hai tay ôm chặt năm cái bình, rồi viết câu sau ở dưới: “Năng lượng được bảo tồn là nhờ không tạp thoại. Năng lượng ấy có thể được sử dụng để tăng trưởng TỈNH GIÁC và CHÁNH NIỆM” (Energy …. that is conserved by not talking can be used for the development of AWARENESS and MINDFULNESS). Hoặc ở tại nhà xí vẽ một người đang đi cầu, chứng được Đạo Quả và viết một câu rất hay, từ đó có thể suy ra tông chỉ của pháp môn Ngài đang hướng dẫn. Rất tiếc, tôi quên ghi lại nguyên văn, đại ý nói: Quá trình dẫn đến ĐỐN NGỘ là một quá trình Chánh Niệm và Tỉnh Giác liên tục. Khi ngũ căn được phát triển đến độ chín mùi và cân bằng thì trạng thái ĐỐN NGỘ có thể xảy ra bất kỳ lúc nào và ở nơi đâu!
5. TRÌNH PHÁP
Thời gian trình pháp ở đây không có nhặt như các trường thiền khác. Trong trường thiền chỉ có một vị Thiền Sư truyền đạt kinh nghiệm tu tập cho thiền sinh, nên Ngài đi vắng bao lâu thì thiền sinh được miễn trình pháp bấy lâu. Khi Ngài trở về thì 4 - 5  hôm mới trình pháp một lần. Khi thiền sinh mới vào tu, Ngài hay dò tâm thức của thiền sinh bằng cách hỏi điều này điều nọ khi các vị trình pháp một hai lần đầu, sau đó, có điều gì thiền sinh thưa hỏi, bằng không thì cứ theo lệ cũ, giữ chánh niệm, tỉnh giác trong khi đi, đứng, ngồi, nằm, ăn, mặc, nói, làm, thiền hành, thiền toạ.
Ở đây thiền sinh không bắt buộc phải ghi lại bằng giấy, hoặc nhớ chi tiết những gì tâm lộn xộn xảy ra khi thiền toạ, thiền hành. Những vị vì muốn bảo đảm những gì mình thưa có thứ lớp và dùng từ chính xác, có thể viết ra giấy sẵn và lên đọc. Khi trình pháp những gì cảm thấy cần yếu thì thiền sinh thưa hỏi, bằng không Thiền Sư có thể cật vấn, và từ đó Thiền Sư soi sáng cho thiền sinh. Vì trình pháp chung nên thiền sinh có thể học hỏi những vấp phải sai lầm của người khác mà mình có thể tránh, hoặc những sở nghi của mình tự tan biến nhờ Thiền Sư soi sáng cho các vị huynh đệ đồng tu cũng có những sở nghi đó !
Thông thường, trình pháp được chia thành nhiều nhóm: nhóm Việt Nam, và trong nhóm Việt Nam cũng được chia ra nhiều nhóm nhỏ nữa, tuỳ theo số lượng và thời gian đến trước sau; nhóm Triều Tiên, nhóm Đài Loan, nhóm Châu Âu, v.v… Nếu thiền sinh biết nói tiếng Anh thì trình bày thẳng bằng Anh ngữ vẫn tốt hơn, bằng không đều có thông dịch viên của nhóm đó phụ trách. Một trong những lý do người Việt Nam tới đây tu đông có lẽ là vì lý do này ! Bên cạnh điểm lợi của trình pháp chung là học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau đó, cũng có những trục trặc chút đỉnh khi trình pháp chung, đó là hiểu biết quá nhiều về những tâm lý tiêu cực hoặc trình độ nhận thức kém cõi của đương sự đó, rất có thể khiến cho một vài thiền sinh đâm ra thiếu cung kính, lễ độ đối với những vị  đồng phạm hạnh vấp phải những vụng về, sai lầm. Tuy nhiên, nếu muốn trình pháp riêng với Thiền Sư, thiền sinh ấy có thể chờ các vị khác xuống rồi trình sau.
Người viết nghe nói có cả những vị tu trước đây, lầm tưởng các trạng thái mình chứng đắc, và từ đó tự cho rằng mình chứng đắc tới các tầng thiền Tuệ này, thiền Tuệ nọ như sách Thiền trình bày, mà thực chất chỉ là những lầm tưởng, khát khao của đương sự đó.  Và như thế những vị ấy lên trình bày với Thiền Sư, và mong Ngài ấn chứng cho, nhưng phải nói tuệ nhãn của Thiền Sư khá độc đáo, nên thiền sinh không dễ gì qua mắt được.
Người viết được trình pháp vài lần chung với chư Tăng Việt Nam và kể cả Tăng sinh ngoại quốc tại trường Đại Học Quốc Tế Truyền Bá Phật Giáo Nguyên Thuỷ (International Theravāda Buddhist Missionary University). Ngài hỏi rất nhiều khi thiền hành và thiền toạ. Có lần Ngài hỏi các thiền sinh, làm cho ai cũng bỡ ngỡ: khi vào phòng ngủ có biết chân nào vô trước hay không ? Đầu vào trước hay chân bước vào trước ? Khi vào nhà tiêu, nhà tắm có biết những gì đang xảy xung quanh mình không?  Đi tiểu, thấy điều gì ? Khi cầm ổ khoá mở cửa vô ra, thấy cái gì ? Khi đánh răng sút miệng có ghi nhận được các cảm thọ khi bàn chải đánh răng chạm vào nướu răng, lưỡi hay không ? Khi đi khất thực tâm ra sao ? Thân ra sao ?  Khi ăn cơm tâm có nôn nóng ăn hay không ? v.v…
Có nhiều vị Việt Nam, vì muốn hiểu biết thêm về trạng thái tâm mà trong các thuật ngữ Phật học thường sử dụng, cũng đặt vấn đề nữa. Điều này một mặt giúp hành giả xem thử mình tu tới trình độ nào, nhưng bên cạnh đó cũng mất thời giờ của Thiền Sư, của đại chúng, và đôi khi không đi vào vấn đề mình có thực tập tới mức đó chưa ! Ví dụ, có vị hỏi khi ăn cơm, cái nếm và cái ăn, cái nào là chân đế, cái nào là tục đế,  v.v… Hoặc có vị hỏi khi gặp cư sĩ họ đảnh lễ, cung kính, lúc đó lúng túng không biết làm gì, vậy phải làm sao ? Hoặc có vị hỏi, khi đi tới nghĩa trang, khu có mộ phần, tâm rung động, sợ sệt phát sinh, vậy phải làm thế nào ? Tâm vọng là vọng tâm, vậy tâm biết tâm đang vọng đó là tâm gì ? Nói chung, tất cả những gì muốn hỏi đều có thể thỉnh vấn Ngài được cả ! Nếu hành giả biết chút đỉnh về các thuật ngữ Pāli trong tạng Vi Diệu Pháp, cũng giúp rất nhiều về mặt nhận thức, vì thỉnh thoảng Ngài dùng một số thuật ngữ trong ấy mà người dịch chưa hẳn chuyển tải được ý của Ngài muốn nói.
Tóm lại, trình pháp với Thiền Sư tại thiền viện Shwe Oo Min là cơ hội để học thêm, và nhất là cơ hội để làm mới lại những gì đã học và tu ! Sư Cô Tín Liên, hiện ở Tịnh Xá Ngọc Phương, đã từng đến đây tham học hơn một năm rưỡi và phụ trách phần chuyển ngữ cho thiền sinh Việt Nam, ắt hẳn có nhiều kinh nghiệm liên hệ đến lộ trình tu tập này.
Nếu hành giả không có duyên về thiền toạ cho lắm, có thể thưa với Ngài trong lúc trình pháp, và Ngài cũng có thể châm chước cho thiền hành (thậm chí là không thiền hành nghiêm túc cho lắm) cũng không sao. Quả là mỗi người có mỗi nhân duyên và căn cơ tu tập khác nhau, không thể ép mọi người giống như nhau, miễn rằng hành giả cố gắng tu là được, tu tới đâu quý tới đó !
6. THỜI KHOÁ
Cũng giống như các thiền viện khác là thiền sinh phải dậy từ lúc 3.30 sáng và phải tu tập đến 9, 10 giờ tối.  Thời khoá cụ thể như sau:
3.30: thức dậy.
4.00 – 5.00: thiền toạ chung tại thiền đường.
5.30: điểm tâm.
7.00: khất thực.
8.00-9.00: tắm rửa, giặt giũ cá nhân.
9.00 – 10.00: thiền toạ.
10.30: thọ trai.
12 giờ trưa cho tới 10.00 giờ đêm thiền toạ và thiền hành xen kẽ nhau.
Thời khoá lý tưởng là vậy, nhưng phần lớn thiền sinh tu giỏi lắm là tới 9 giờ tối đều xuống phòng nghỉ cả. Vì thiền viện này cũng giống như ở thiền viện Chanmyay, thiền sinh tự tu lấy, Thiền Sư không giám sát trực tiếp, nên tinh tấn hay giải đãi là tuỳ vào hành giả. Thiền Sư chỉ thỉnh thoảng lên kiểm tra một vòng từ 3 - 4 giờ chiều.
Sau khoá thiền buổi sáng 5 giờ, thời gian còn lại nửa tiếng là quét dọn thiền đường, ngoài sân, sau đó chuẩn bị điểm tâm. Thời gian từ 8.00 - 9.00 sáng cũng tuỳ mình sắp xếp tắm rửa, giặt giũ hay vào lúc 4.00 - 5.00 chiều đều được.
Thời gian biểu để tu tập là tới 10.00 tối mới nghỉ ngơi, nhưng phần lớn chư Ni ngoại quốc đã xuống phòng lúc 8.00 và tu tập tại phòng hoặc nghiên cứu kinh luật cũng được, nếu tu lâu dài. Vì lúc 8.00 chư Ni và Phật tử Miến đều có pháp thoại của cố HT Shwe Oo Min hoặc các vị Cao Tăng, Thiền Sư khác, nên chư Ni và nữ cư sĩ ngoại quốc đều xuống phòng riêng cả. Còn phía chư Tăng phần lớn tu đến 8.30 là lục đục đi xuống, tới 9.00 là xuống hết. Vị ni phụ trách thiền đường cũng đóng cửa vào lúc đó.
Sau khi xuống phòng riêng có thể nghỉ hoặc đọc sách tuỳ mỗi vị. Phần lớn đều chìm vào giấc ngủ rất sâu sau 15 - 17 tiếng đồng hồ thiền tập, nếu không nghỉ trưa.  Chính vì ngủ sớm như vậy, nên thiền sinh có thể dậy sớm lúc 3.30 hoặc sớm hơn nữa. Có thiền sinh tu rất  tinh tấn, đã lên thiền đường tu tập từ lúc 2.30 hoặc 3.00 sáng. Vị phụ trách thiền đường lúc nào cũng dậy rất sớm, đều dậy trước 3 giờ để mở cửa, thắp đèn, đốt hương cúng dường Tam Bảo. Quả thật là công đức vô lượng !
7. KHẤT THỰC
Sau khi điểm tâm xong lúc 6 giờ, chư Tăng về phòng vệ sinh cá nhân, và chuẩn bị y bát đi khất thực lúc 7 giờ.  Phật tử ở Miến rất thành tâm với Tam Bảo. Khu làng mà chư Tăng ở thiền viện đi khất thực quanh năm không đầy đủ vật chất cho lắm. Nhà cửa còn thô sơ, mái tranh vách đất, tre nứa che mưa đỡ nắng qua ngày. Một số gia đình trước nhà trồng vài luống rau xanh, hoặc đất bỏ hoang cỏ mọc thành đám. Thế mà, mỗi ngày chúng tôi đi khất thực đều có tín chủ phát tâm nấu cơm sẵn, đựng trong thau nhỏ, bát, tô, tuỳ theo khả năng kinh tế của họ mà dâng chư Tăng. Có cả chư Ni Miến Điện chùa ở gần đó ngày nào cũng sớt bát cho chư Tăng nữa. Các em nhỏ ra đứng thành hàng, chắp tay thành kính hoặc đôi lúc quỳ mọp dưới đất đảnh lễ khi chư Tăng đi ngang qua. Khi chư Tăng đi khất thực, nam nữ cư sĩ đi ngược đường phần lớn đều đứng lại nghiêm trang để chờ chư Tăng qua rồi mới đi tiếp, trông họ rất thành kính và mộ đạo !
Không biết họ có phân công hay không, nhưng các tín chủ dâng cơm thấy không đều. Bữa nay gia đình này, bữa sau gia đình khác, đôi 3 bữa sau là thấy họ dâng lại. Nắng mưa gì các tín chủ đó vẫn vậy, nên chư Tăng cũng phải khất thực dầu có mưa, và thậm chí có thể dẫn đến bị bệnh vì nhiễm mưa nữa. Vào những lúc mưa nặng hạt, chư Tăng có thể nhận tượng trưng, còn lại họ sẽ đổ vô nồi lớn do cư sĩ hộ thực tại thiền viện đem theo. Những lúc mưa quá lớn, họ biết chư Tăng không thể đi khất thực được thì họ mới không chờ.
Pháp khất thực của thiền viện này, và có lẽ đối với pháp khất thực tại Miến nói chung, lạ lẫm so với những gì người viết đã được học và hành trì. Pháp khất thực ở đó cũng chỉ tượng trưng thôi, vì không chỉ nhận thực phẩm cho bản thân mình mà xin cho chư Ni và Phật tử tu tại thiền viện dùng nữa. Khi cơm trong bát của vị Sư đi khất thực đã đầy rồi hoặc sắp đầy, các vị có thể đổ vào nồi lớn do các nam cư sĩ hộ bát đem theo, và do đó có thể đi tiếp cho hết khu làng đó. Cho nên, một vị đi khất thực trung bình cũng phải đổ vào nồi lớn ít nhất là một lần, và phần còn lại là mang về thiền viện hoặc đổ vào nồi mà các cư sĩ đã để sẵn bên vệ đường. Các tín chủ phần lớn chỉ dâng cơm, lâu lắm mới có những vị để bát thức ăn. Nếu để bát thức ăn cũng có cư sĩ hộ bát bỏ vào giỏ mang về thiền viện. Cơm trắng sau khi khất thực về được nhà bếp hâm nóng lại cho cả đại chúng dung vào buổi trưa, và đôi khi dư cho cả điểm tâm sáng hôm sau. Tuy nhiên, cũng có vị Sư ngoại quốc (có lẽ đến từ Tích Lan đến) đi khất thực nhận cơm đầy bát rồi tách đoàn về trước. Vị này là khách tăng không ở lâu, chỉ vài hôm rồi đi thăm trường thiền khác.
Mỗi ngày chư Tăng đều đi khất thực như vậy, cả đi lẫn về gần một tiếng đồng hồ.  Tốc độ đi hơi nhanh, phần lớn các vị mới tới gần như đi không kịp. Các vị Thượng toạ, Đại đức nhiều hạ, khi đi khất thực cầm quạt che nắng hoặc che mưa. Khi đi khất thực vị Đại Đức trụ trì hoặc Thiền Sư đi trước, vị trụ trì thứ 2, hoặc thứ 3 trong thiền viện đi sau cuối để giám sát thiền sinh.
Những tín chủ cúng dường cơm vào mỗi ngày gần như ở mọi lứa tuổi, từ em bé 9-10 tuổi đến ông cụ, bà già 70-80 tuổi. Mỗi lần tới các em nhỏ, quý Sư phải nghiêng người xuống để các em sớt cơm vào bát, thật là cảm động.
8. THỰC PHẨM VÀ THỌ TRAI
Khi điểm tâm hay thọ trai trưa, chư Tăng Nguyên Thuỷ đều phải mang bát xuống  để đựng thức ăn. Chỉ trừ các vị Thượng toạ hoặc Thiền Sư trong thiền viện là miễn mang bát vào buổi sáng. Các nhà Sư Đại Thừa ở thiền viện này không bắt buộc dùng bát cả sáng lẫn trưa. 
Thực phẩm chay mặn đều có, nhưng phần lớn đều mặn. Khi lên thọ thực, cơm và thức ăn đã được dọn sẵn lên bàn. Các nhà Sư chỉ trải toạ cụ, ngồi xuống trong chánh niệm, sớt cơm, thức ăn vào bát và chánh niệm thọ thực. Ăn xong, chánh niệm bỏ bát vào túi, đi xuống, rửa bát và im lặng về phòng nghỉ.
Có lẽ các nhà Sư Đại Thừa và Khất Sĩ muốn tu tại thiền viện này nên chuẩn bị một ít thực phẩm chay, như xì dầu, nước tương để ăn kèm với thức ăn đã được phân phối tại thiền viện thì mới đủ. Các loại thực phẩm chay nói trên có thể gởi mua tại Miến. Mặc dù các nhà Sư Khất Sĩ hoặc Đại Thừa Việt Nam ăn chay trường, nhưng mỗi ngày đều được phân phối đầy đủ những gì các Sư Nguyên Thuỷ dùng. Một số nhà Sư Đại Thừa Triều Tiên ngày nay đã ăn mặn khi ở tại thiền viện này.
Trong số các nhà Sư Nguyên Thuỷ vẫn có vị ăn chay. Các vị Sư này cũng có thể xuất thân từ Phật giáo Đại thừa, hoặc đã từng là cư sĩ ở các cộng đồng Đại thừa, như Đài Loan, Mã Lai Á, Phi Luật Tân, hoặc những vị theo truyền thống Nguyên Thuỷ nhưng vì bệnh duyên, hoặc cho rằng ăn chay để trưởng dưỡng tâm từ bi. Trong những ngày tháng tu ở đó, tôi thầm nể phục một vài vị, dù đã ở nhiều tháng rồi, và dự định ở đó lâu hơn nữa để tu tập, mặc dầu ăn uống hơi kham khổ so với những gì vị ấy trước kia hưởng thụ. Có lẽ bởi vì vị ấy nhận được pháp của vị Thiền Sư hướng dẫn rất phóng khoáng, không vướng kẹt vào một đề mục nào, kiến giải hay. Có lần người viết thấy một vị dùng cơm trắng không có thức ăn, khi bữa cơm đã gần xong, sau này tôi mới biết ra vị ấy đã dùng chay trên 22 năm rồi !
Riêng phần chư Ni thì không có gì trở ngại, vì chư Ni và nam nữ cư sĩ ăn chung một trai đường. Các vị dùng chay có thể ăn chung một bàn. Thức ăn thì tự các vị sớt lấy, nên có thể chọn và tự sớt đủ thực phẩm như ý của mình được.
Buổi chiều từ 4.00 – 4.30 thỉnh thoảng có nước uống, phần lớn là do thiền sinh tại thiền viện cúng dường. Số tiền cúng nước cho buổi chiều cũng không nhiều, từ 10 – 15 Mỹ kim là có thể cúng dường nước cho khoảng 100 vị rồi.
Thành thật mà nói, cách thức tu tập theo sự hướng dẫn của Thiền Sư ở đây quả là tuyệt vời. Nhiều vị đều công nhận như vậy, nhưng vì thực phẩm chay ít quá, có một số vị chịu không nổi nên đã rời trường thiền ! Có một số vị nhận định rằng, nếu trường thiền này chỉ cần cải cách thực phẩm từ mặn thành chay như Thiền Lâm Pa-Auk thì đây là một trong những trường thiền rất có thể có số lượng thiền sinh lớn nhất nhì tại Miến !
9. Y PHỤC TẠI THIỀN VIỆN
Khi chúng tôi vào thiền viện, cùng đi với chúng tôi còn vài Tăng Ni sinh khác nữa của Trường Đại Học Phật Giáo tại Miến cũng vào tu nhân dịp nghỉ hè sau khi thi kỳ một. Đại Đức trụ trì lúc bấy giờ pháp danh là U Tejinda thấy y của chúng tôi hơi lạ với y của quý Sư Nguyên Thuỷ bên Miến một chút, nên hỏi là Đại Thừa phải không ? Vị Sư đi trong đoàn trả lời giúp cho chúng tôi là không phải. Vị ấy hỏi vậy có phải Nguyên Thuỷ chăng ? Cũng không phải! Vị Sư đi trong đoàn mới thưa là không phải Nguyên Thuỷ mà cũng không phải Đại Thừa. Vị Đại Đức trụ trì cũng không cật vấn nhiều.
Tối hôm sau chúng tôi được kêu lên và Ngài bảo giải y để Ngài xem. Mặc dầu chúng tôi khi vào đảnh lễ và sinh hoạt ở đó đã mặc y theo truyền thống của Thái Lan. Y Thái Lan, cỡ kích và cách may giống như các Sư Nguyên Thuỷ bên Miến cả, chỉ có khác là y Miến bề ngang nhỏ hơn các y của Thái, Lào, Campuchia và y của các vị Khất Sĩ một chút. Chúng tôi vâng lời làm theo. Sau cùng Ngài bảo là Ngài muốn cúng dường bộ y mới của quý Sư Nguyên Thuỷ Miến Điện thường mặc, có nhận không ? Dĩ nhiên là chúng tôi hoan hỷ đón nhận. Mặc dầu Ngài không nói gì thêm, nhưng chúng tôi cũng ngầm hiểu rằng, đắp y như vậy cho đồng bộ, cho trường thiền đẹp thêm, vậy cũng quý. Các Sư Nguyên Thuỷ đến từ các nước khác phần lớn cũng vậy ! Nếu các vị đắp y vàng không quá sáng thì có thể giữ y đó cũng không sao.
Còn riêng các Sư Đại Thừa có thể mặc áo nhật bình, áo tràng hoặc đắp y cho nghiêm trang cũng tuỳ vào mỗi hành giả. Các Sư Đại Hàn đều đắp y cả, vì thật sự áo nhật bình của họ không có nghiêm trang như áo nhật bình của Trung Quốc, Đài Loan, Việt Nam. Các vị ấy cũng linh động thay vì đắp y vàng sáng như theo truyền thống xưa nay, các vị đã đổi thành vàng đà hoặc nâu đà để phù hợp với màu y truyền thống của Miến hơn.
10. TĂNG CHÚNG TẠI THIỀN VIỆN
Ngài Shwe Oo Min ra hành đạo quá muộn, nên Tăng chúng đệ tử thường trú không nhiều. Có những vị chỉ thọ giới với Ngài rồi đi nơi khác ở. Có những vị trực tiếp thọ giới và tu học với Ngài thời gian cũng khá lâu, nhưng vì không đủ nhân duyên nên hoàn tục. Cũng có những vị ra riêng đang xây dựng thiền viện. Hiện nay chỉ thấy có 5, 6 vị là Tăng thường trú. Còn lại là khách tăng, và phần lớn là thiền sinh từ các nước đến tu tập. Những vị Sư phụ trách trông nom thiền viện đều còn trẻ cả, cao tuổi nhất là 60, nhưng chỉ có một vị thôi, còn lại là 50 trở xuống.
Vị Thiền Sư hướng dẫn hành thiền có lẽ là Sư đệ của các vị chức sắc trong thiền viện, vì tuổi hạ chỉ 9-10 năm là tối đa, nhưng khi hành pháp, ví dụ đi khất thực, hướng dẫn chúng tu tập đều đi đầu. Ngoài Phật sự này ra, vẫn ngồi theo tuổi đạo vào các bữa tụng giới, nhận y ka-thi-na. Khi HT Shwe Oo Min Sayādaw tịch, tăng chúng còn trẻ quá, nên Ngài giao phó công việc quản lý thiền viện cho 3 vị đệ tử lớn để các vị tự sắp xếp lấy, thế là từ đó mỗi vị trụ trì mỗi kỳ 3 tháng.
Thiền sinh tại thiền viện bao gồm cả chư Tăng Ni, cư sĩ ngoại quốc và cả Miến Điện trung bình từ 150 – 170 vị. Vào mùa hạ có thể tăng lên đến 200. Vào dịp lễ hội tại Miến, các Phật tử đến tu gieo duyên đông nên thiền sinh có thể đến 250.  Thiền sinh đông nhất là Hàn Quốc và Việt Nam. Số còn lại là Đài Loan và một vài nước khối Âu Châu. Vào mùa nghỉ hè, Tăng Ni sinh du học tại trường Đại Học Phật Giáo vô tu, gồm đủ các nước như Cam-pu-chia, Lào, Thái Lan, Bangladesh, v.v…
Vào mùa an cư, các Sư từ thiền viện Phước Sơn, Đồng Nai trực thuộc truyền thống Nguyên Thuỷ đến tu khá đông, và sau mỗi mùa an cư các vị phần lớn về lại Việt Nam. Nhưng hầu như ngày nào, tháng nào cũng có người Việt Nam ở đó. Cho nên những vị không biết tiếng Anh đến đó tu vô cùng thuận lợi, có nhiều vị đã và đang tu nơi đó giúp thông dịch, làm giấy tờ, v.v… Nhưng người Việt tu đông cũng có những trở ngại của nó, hành giả rất có thể bị phân tâm vì thân hữu, hoặc các mối quan hệ, nếu không khéo tỉnh giác.
11. THỨ BẬC TẠI THIỀN VIỆN
Ở trong thiền đường thì không phân biệt thứ bậc cho lắm. Mỗi người tìm cho mình một chỗ ngồi phù hợp và từ đó cứ như vậy mà ngồi. Thông thường các vị mới đến sau cứ ngồi phía sau là ổn. Khi đi thọ thực cũng nhìn trước, nhìn sau đi cho thứ bậc. Thông thường, các vị Sư Nguyên Thuỷ lớn hạ đi trước, sau đó mới tới các nhà Sư Đại Thừa, và nam cư sĩ. Khi thọ trai bữa đầu, vị Thượng toạ trụ trì sẽ chỉ dẫn chỗ ngồi cho thiền sinh.
Các nhà Sư Nguyên Thuỷ ngồi theo một dãy, cũng theo tuổi hạ mà ngồi, nhưng điều đó cũng không có khắt khe lắm. Người viết thấy các vị Sư tu gieo duyên, nhất là các vị Việt Nam đến từ Mỹ quốc cũng ngồi cao hơn những vị phát nguyện tu cả đời và lớn tuổi hạ hơn mà đến sau. Các nhà Sư Đại Thừa và Khất Sĩ được ngồi riêng một dãy, nối theo các vị Sư Nguyên Thuỷ. Tiếp theo đó là những vị tu gieo duyên ngoại quốc và các vị Sa-di ở Miến nếu hàng chính bên kia hết chỗ. Khi đi khất thực, chỉ có 7 – 10 vị hàng đầu là đi đúng theo hạ lạp, còn lại gần như không đúng theo hạ lạp cho lắm. Rõ ràng, việc ngồi trước ngồi sau, đi trước đi sau, không phản ảnh được công phu tu tập thật sự của mỗi hành giả. Ở đây, người viết chỉ phản ánh khách quan những gì đã thấy về cách tổ chức của trường thiền mà thôi !
Trong những ngày tháng đi khất thực chung với các Sư Việt Nam, các Sư ngoại quốc ở đó, quả thật là những ngày học hỏi lẫn nhau. Học từ cách đi đứng của quý Sư, học từ nhận thức rằng tất cả đều là huynh đệ, không phân biệt hệ phái, không đặt nặng vị trí lớn nhỏ hạ lạp. Có những vị tu 5, 6 năm rồi, nhưng lúc nào cũng khiêm cung dành đi sau, nhường chỗ cho những vị mà các vị ấy kính trọng, thật là những gương hạnh quý, khó quên.
Cũng vì cách sắp xếp vị trí hạ lạp, hành giả thuộc trường phái chính thống và không chính thống như một vài vị suy nghĩ, nên những chuyện não phiền cũng có xảy ra tại thiền viện này. Có vị vì bị áp lực nặng nề nên từ hệ phái Khất Sĩ tạm chuyển sang Nam Tông cho thuận khi tu ở đó. Có vị Thuợng Toạ vì bất mãn áp lực của thiền viện nên không tu ở thiền viện. Cũng có vị ở đó học tu một thời gian rồi đi nơi khác, hoặc về lại bổn quốc với bao thất vọng. Có vị vì bị người khác có ý bất nhã đôi lần, lấn quyền cả trụ trì, không cho đi khất thực, mà không ở đó nữa. Đó là nỗi đau, là vết thương cần phải bù đắp, cần phải chữa trị để tình huynh đệ ngày một lớn mạnh, trưởng thành trong giáo pháp hơn.    
Có lẽ vị Thiền Sư không biết hết thực trạng của thiền viện xảy ra như thế nào. Vì đó là công việc sắp xếp của trụ trì và của những vị phụ giúp. Những điều đó xảy ra một phần lớn do cộng đồng người Việt mình. Tự mình không tôn trọng lẫn nhau, nếu không muốn nói là kỳ thị, là điều trong âm thầm gây mất hoà khí, nếu không muốn nói là chia rẽ, đổ vỡ và dẫn đến chia tay ! Chuyện người viết đề cập ở trên, và còn một vài việc khác không tiện trình bày ở đây, quả là một sự kiện không đẹp mấy trong Tăng đoàn, đáng lẽ cũng không ghi lại làm gì, nhưng hy vọng đó là một sự kiện cần rút kinh nghiệm để từ đó xây dựng tình huynh đệ trong Tăng đoàn ngày một tốt đẹp, hoà hợp hơn.
Chúng tôi ở đó cũng quý mến rất nhiều Sư và các Sư Nguyên Thuỷ đối với chúng tôi cũng vậy, nhất là các Sư ở gần phòng, chia sẻ nhiều kinh nghiệm quý báu trong cuộc đời và tu học. Bốn phương trời đổ về một nơi học Đạo, với tinh thần không phân biệt tôn giáo, hệ phái, đẳng cấp, trình độ, v.v... tại thiền viện này hoặc ở những trường thiền khác, dù là ở Miến, ở Việt Nam hay ở nước khác thật là quý báu, nhưng do phàm nhân không thực hiện được thôi.
Hãy gạt bỏ tất cả những dị biệt không quan trọng để cùng nhau đi đến một phương trời rộng mở, nơi đó không có dấu vết của kỳ thị, của tranh chấp, của tự ngã, của bỉ thử thì chắc chắn sẽ bước nhanh hơn trên con đường giải thoát.
12. TỤNG KINH
Thiền sinh không tụng kinh như Tăng chúng tại thiền viện. Tối khoảng 7 giờ, chư Tăng tại thiền viện khoảng vài vị lên Giới Đường (phòng để chư Tăng hội họp và đọc Giới Bổn) tụng kinh. Trong Giới Đường không có thờ Đức Phật, mà chỉ thờ Ngài Shwe Oo Min. Tại thiền đường dành cho chư Ni và nữ cư sĩ, cũng không có thờ Đức Bổn Sư mà chỉ thờ Ngài Shwe Oo Min. Chỉ có thiền đường của chư Tăng mới thờ tượng Đức Bổn Sư, nên thỉnh thoảng chư Ni và Phật tử lên thiền đường chư Tăng lạy Phật vào sáng sớm.
Từ 4.00 - 4.30 sáng, chư Ni và nữ cư sĩ được vị Đại Đức trụ trì hoặc các vị lớn hạ trong trường thiền thay phiên hướng dẫn tụng kinh. Vị Đại Đức xướng một câu, đại chúng tụng theo, cứ như vậy cho hết thời kinh. Cách thức tụng kinh này giữ theo truyền thống xưa của Miến và của những xứ khi hệ thống ấn loát chưa được phát triển. Vào những ngày Bố-tát, các vị Thượng Toạ, Đại Đức ngoài việc hướng dẫn tụng kinh, còn truyền giới cho nữ thiền sinh nữa. 
Vì thiền đường dành cho chư Tăng và nam cư sĩ ngay ở từng trên, nên từ 4.00 – 4.30 sáng đều nghe chư Ni và nữ Phật tử tầng dưới tụng kinh. Cạnh thiền viện có ngôi chùa mở máy tụng kinh cũng gần cả tiếng đồng hồ nữa, nên buổi sáng ở thiền viện Shwe Oo Min, thành thật mà nói, chưa phải là nơi lý tưởng để tu thiền Vắng Lặng (Samatha), mà chỉ có thể tu thiền Minh Sát (Vipassanā). Tuy nhiên, hành giả nào đã vững vàng cả Chỉ Quán thì dù ở đâu, môi trường nào cũng có thể định tâm mà quán chiếu được.
13. CƠ SỞ HẠ TẦNG VÀ MÔI TRƯỜNG
Diện tích đất của thiền viện không lớn bằng diện tích đất của thiền viện Panditarāma, hoặc Chanmyay ở trong rừng, nên cách xây dựng thiền viện này không giống với các thiền viện khác. Ở đây, mọi cơ sở đều xây lầu. Thiền đường cũng hai tầng: tầng trên dành cho chư Tăng và nam cư sĩ. Tầng dưới dành cho chư Ni và nữ cư sĩ. Phía bên nam có 4 dãy lầu hai tầng. Mỗi dãy có khoảng 20 phòng đôi. Những lúc thiền sinh ít thì mỗi vị ở một phòng, khi thiền sinh đông thì 2 vị một phòng. Bên Ni, chúng tôi không rõ, nhưng trông cũng rất đồ sồ. Nhà thọ trai 2 tầng, tầng trên dành cho chư Tăng, tầng dưới dành cho chư Ni và nam nữ cư sĩ, được nối liền với nhà khói, rất tiện để cho các vị công quả dọn dẹp, sắp xếp.
Các toà nhà, thiền đường, v.v… được nối nhau và đều có mái che, nên dù nắng mưa đều không trở ngại cho thiền sinh khi đi tới đi lui trong thiền viện. Có thể nói, những ngày tháng ở đó không cần dù và không cần mang dép, vì đều có mái che và các lối đi đều lót bằng gỗ hoặc đúc bằng xi măng. Ở các tầng lầu phía chư Tăng đều có máy giặt  sấy. Nhiều Phật tử Việt Nam tại thiền viện của HT Kim Triệu ở Mỹ đã hỗ trợ cho công trình của thiền viện này khá nhiều, nên trên một số đoạn tường của thiền viện có ghi lại phương danh của quý Phật tử ấy.
Buổi chiều từ 5-7 giờ, một số thiền sinh (bao gồm cả chư Tăng, Ni, nam nữ cư sĩ) đi thiền hành nghiêm túc, và cũng có những vị đi thong thả từ đầu cổng vào tới cuối thiền viện, trao đổi những kinh nghiệm tu tập, thậm chí bàn những chuyện không thiết yếu đối với vấn đề tu tập lắm. Mặc dầu điều này cũng được khuyến cáo là hành giả nghiêm túc không nên như vậy, nhưng có lẽ cũng đã thành nếp, nên khó mà sửa !
Ở thiền đường (dành cho nam và nữ) đều có bồn rửa mặt bằng thiết. Điều này gây bất tiện hơn là thuận tiện, bởi vì nó gây tiếng động trong thời hành thiền. Biết như thế, nên Thiền Sư vẫn thường khuyên hành giả dù trong hoàn cảnh nào cũng nên giữ chánh niệm và tỉnh giác để theo dõi tâm của mình. Tâm mình có sân, biết có sân, tâm mình khó chịu biết tâm đang khó chịu. Chính vì vậy, một số thiền sinh coi đó là một chuyện bình thường, không làm phiền hành giả gì và cứ tiếp tục sả nước, sút chai, sửa soạn chỗ ngồi sột soạt, đi thật mạnh khi các thiền sinh khác đang thiền tập, dù nhiều vị đã cố gắng chánh niệm, tỉnh giác, nhưng đôi lúc cũng cảm thấy không được yên tịnh cho mấy. Đúng là một thử thách trong thiền tập! Nếu hành giả đủ tỉnh giác thì mọi sự vật xung quanh đang xảy ra, mình đều có thể tận dụng để phát triển các Ba-la-mật, và có lẽ trong trường hợp này hành giả sẽ phát triển được nhẫn thọ, bao dung, độ lượng Ba-la-mật vậy.
14. SINH HOẠT PHÍ
Người viết được biết, các nam nữ Phật tử Miến đều phải đóng phí cả, nhưng không biết rõ là bao nhiêu. Các cư sĩ nước ngoài phần lớn đến đều có cúng dường, nên vấn đề này không cần đặt ra. Chúng tôi nghe các vị ở đó nói, có thể là từ đầu năm 2006, mỗi thiền sinh nước ngoài, kể cả Tăng Ni đều phải đóng 15 Mỹ kim mỗi tháng cho thiền viện. Đây cũng chỉ là thông tin truyền miệng, không có văn bản. Theo các vị ấy,  vì có đóng phí thiền sinh mới nỗ lực hơn, và cũng để bảo trì thiền viện được lâu dài hơn. Tuy nhiên, khi chúng tôi đảnh lễ Thượng toạ trụ trì ra về, xin vài giấy giới thiệu cho chư huynh đệ sau này tiện lấy visa qua đó tu; theo thông tin trong giấy bảo lãnh ấy, thiền viện sẽ ủng hộ hoàn toàn về ăn ở khi đã vào thiền viện tu tập !
Nói tóm lại, trình độ và khả năng của hành giả mức nào vô đây tu đều được, nhất là những vị chưa từng vô nề nếp nghiêm túc thật sự của một thiền viện. Trong cõi trần gian huyễn hoá, giả tạm, tương đối này, cái gì cũng có cả. Thiên đường, địa ngục cũng do mình, Niết Bàn, sanh tử cũng do mình. Tại thiền viện cũng  vậy ! Có lẽ nếu mình biết uyển chuyển, khéo léo, chánh niệm, tỉnh giác (dù ở mức độ sơ thiển) thì trần gian cũng có thể biến thành cõi tịnh độ được, và ngược lại nếu mình không khéo tu tập. Các bậc Thầy chỉ là người chỉ đường, còn đi hay không là tuỳ thuộc vào chính mình! “Bạn không thể du hành trên một Đạo lộ, nếu bạn không trở thành chính Đạo lộ đó” (Thou canst not travel on the Path before thou hast become that Path itself).

Địa chỉ liên hệ: Shwe Oo Min Dhamma Sukha Forest Centre, Aung Myay Thar Yar street, Kon Tala Paung village, Mingalardon township, P.O 11022, Yangon, Myanmar. Tel: 95-1-638.170. Email: shweomindsk@myanmar.com.mm.

by Thích Giác Hoàng.

Tuesday, October 23, 2012

SAMATHA và VIPASSANĀ (CHỈ TỊNH và MINH SÁT)

GIẢNG VỀ SỰ KẾT HỢP CHUNG

Tôi được nghe như vầy: Một thời, đại đức Ānanda ngụ tại Kosambī, tu viện Ghosita. Chính ở tại nơi ấy, đại đức Ānanda đã bảo các vị tỳ khưu rằng:

- Này các đại đức tỳ khưu.

- Thưa đại đức. Các vị tỳ khưu ấy đã đáp lại đại đức Ānanda.

Đại đức Ānanda đã nói điều này:

- Này các đại đức, bất cứ vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni nào tuyên bố về phẩm vị A-la-hán trong sự hiện diện của tôi là do toàn bộ bốn đạo lộ hoặc do một đạo lộ nào đó của bốn đạo lộ ấy? Do bốn (đạo lộ) gì?

- Này các đại đức, ở đây vị tỳ khưu tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước. Khi vị ấy đang tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước, đạo lộ được hình thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy).

Này các đại đức, hơn nữa vị tỳ khưu tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước. Khi vị ấy đang tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước, đạo lộ được hình thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy).

Này các đại đức, hơn nữa vị tỳ khưu tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung. Khi vị ấy đang tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung, đạo lộ được hình thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy).

Này các đại đức, hơn nữa (có trường hợp) tâm của vị tỳ khưu bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Này các đại đức, lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành cho vị ấy. Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy).

Này các đại đức, bất cứ vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni nào tuyên bố về phẩm vị A-la-hán trong sự hiện diện của tôi là do toàn bộ bốn đạo lộ này hoặc do một đạo lộ nào đó của bốn đạo lộ ấy.

* * *

Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước là (có ý nghĩa) thế nào?

Trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm do tác động của sự thoát ly là định. Liên quan đến các pháp được sanh lên ở định ấy, với ý nghĩa của sự quán xét về vô thường là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về khổ não là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về vô ngã là minh sát. Như thế là chỉ tịnh trước, minh sát sau. Vì thế được gọi là "Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước."

Tu tập: Có bốn sự tu tập: sự tu tập các pháp đã được sanh lên tại nơi ấy với sự không vượt trội là yếu lý, sự tu tập các quyền với nhất vị là yếu lý, sự tu tập với việc khởi động sự tinh tấn (thích hợp) nhằm đạt đến giải thoát Niết Bàn là yếu lý, sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.

Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào?

Chánh kiến với sự nhận thức là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh tư duy với sự gắn chặt (tâm vào cảnh) là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh ngữ với sự gìn giữ là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh nghiệp với nguồn sanh khởi là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh mạng với sự trong sạch là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh cần với sự ra sức là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh niệm với sự thiết lập là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh định với sự không tản mạn là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế.

Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy: Rèn luyện là (có ý nghĩa) thế nào?

Trong khi hướng tâm, vị ấy rèn luyện. Trong khi nhận biết, vị ấy rèn luyện. Trong khi nhận thấy, vị ấy rèn luyện. Trong khi quán xét lại, vị ấy rèn luyện. Trong khi khẳng định tâm, vị ấy rèn luyện. Trong khi hướng đến đức tin, vị ấy rèn luyện. Trong khi ra sức tinh tấn, vị ấy rèn luyện. Trong khi thiết lập niệm, vị ấy rèn luyện. Trong khi tập trung tâm, vị ấy rèn luyện. Trong khi nhận biết bởi tuệ, vị ấy rèn luyện. Trong khi biết rõ điều cần được biết rõ, vị ấy rèn luyện. Trong khi biết toàn diện điều cần được biết toàn diện, vị ấy rèn luyện. Trong khi dứt bỏ điều cần được dứt bỏ, vị ấy rèn luyện. Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy rèn luyện. Rèn luyện là (có ý nghĩa) như thế.

Tu tập: Tu tập là (có ý nghĩa) thế nào?

Trong khi hướng tâm, vị ấy tu tập. Trong khi nhận biết, vị ấy tu tập. Trong khi nhận thấy, vị ấy tu tập. Trong khi quán xét lại, vị ấy tu tập. Trong khi khẳng định tâm, vị ấy tu tập. Trong khi hướng đến đức tin, vị ấy tu tập. Trong khi ra sức tinh tấn, vị ấy tu tập. Trong khi thiết lập niệm, vị ấy tu tập. Trong khi tập trung tâm, vị ấy tu tập. Trong khi nhận biết bởi tuệ, vị ấy tu tập. Trong khi biết rõ điều cần được biết rõ, vị ấy tu tập. Trong khi biết toàn diện điều cần được biết toàn diện, vị ấy tu tập. Trong khi dứt bỏ điều cần được dứt bỏ, vị ấy tu tập. Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy tu tập. Tu tập là (có ý nghĩa) như thế. Tu tập là (có ý nghĩa) như thế.

Làm cho sung mãn: Làm cho sung mãn là (có ý nghĩa) thế nào?

Trong khi hướng tâm, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi nhận biết, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi nhận thấy, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi quán xét lại, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi khẳng định tâm, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi hướng đến đức tin, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi ra sức tinh tấn, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi thiết lập niệm, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi tập trung tâm, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi nhận biết bởi tuệ, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi biết rõ điều cần được biết rõ, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi biết toàn diện điều cần được biết toàn diện, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi dứt bỏ điều cần được dứt bỏ, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy làm cho sung mãn. Làm cho sung mãn là (có ý nghĩa) như thế.

Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy): Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) thế nào?

Do Đạo Nhập Lưu, ba sự ràng buộc này được dứt bỏ là thân kiến, hoài nghi, sự cố chấp vào giới và nghi thức, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm.

Do Đạo Nhất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục, sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất bình ngủ ngầm có tính chất thô thiển.

Do Đạo Bất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất vi tế, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất bình ngủ ngầm có tính chất vi tế.

Do Đạo A-la-hán, năm sự ràng buộc này được dứt bỏ là ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ba ngủ ngầm này được chấm dứt là ngã mạn ngủ ngầm, ái hữu ngủ ngầm, vô minh ngủ ngầm

Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Sự chuyên nhất và sự không tản mạn của tâm do tác động của sự không sân độc là định. Sự chuyên nhất và sự không tản mạn của tâm do tác động của sự nghĩ tưởng về ánh sáng là định. ...(như trên)... Sự chuyên nhất và sự không tản mạn của tâm do tác động của hơi thở vào có sự quán xét về từ bỏ do tác động của hơi thở ra có sự quán xét về từ bỏ là định. Liên quan đến các pháp được sanh lên ở định ấy, với ý nghĩa của sự quán xét về vô thường là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về khổ não là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về vô ngã là minh sát. Như thế là chỉ tịnh trước, minh sát sau. Vì thế được gọi là "Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước."

Tu tập: Có bốn sự tu tập: sự tu tập các pháp đã được sanh lên tại nơi ấy với sự không vượt trội là yếu lý, sự tu tập các quyền với nhất vị là yếu lý, sự tu tập với việc khởi động sự tinh tấn (thích hợp) nhằm đạt đến giải thoát Niết Bàn là yếu lý, sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.

Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào?

Chánh kiến với sự nhận thức là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh tư duy với sự gắn chặt (tâm vào cảnh) là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. ...(như trên)... Chánh định với sự không tản mạn là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế.

Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy: Rèn luyện là (có ý nghĩa) thế nào?

Trong khi hướng tâm, vị ấy rèn luyện. Trong khi nhận biết, vị ấy rèn luyện. ...(như trên)... Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy rèn luyện. Rèn luyện là (có ý nghĩa) như thế.

Tu tập: Tu tập là (có ý nghĩa) thế nào?

Trong khi hướng tâm, vị ấy tu tập. Trong khi nhận biết, vị ấy tu tập. ...(như trên)... Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy tu tập. Tu tập là (có ý nghĩa) như thế.

Làm cho sung mãn: Làm cho sung mãn là (có ý nghĩa) thế nào?

Trong khi hướng tâm, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi nhận biết, vị ấy làm cho sung mãn. ...(như trên)... Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy làm cho sung mãn. Làm cho sung mãn là (có ý nghĩa) như thế.

Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy): Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) thế nào?

Do Đạo Nhập Lưu, ba sự ràng buộc này được dứt bỏ là thân kiến, hoài nghi, sự cố chấp vào giới và nghi thức, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm.

Do Đạo Nhất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục, sự ràng buộc của bất bình có tính chất thô thiển, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất bình ngủ ngầm có tính chất thô thiển.

Do Đạo Bất Lai, hai sự ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất bình có tính chất vi tế, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và bất bình ngủ ngầm có tính chất vi tế.

Do Đạo A-la-hán, năm sự ràng buộc này được dứt bỏ là ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ba ngủ ngầm này được chấm dứt là ngã mạn ngủ ngầm, ái hữu ngủ ngầm, vô minh ngủ ngầm

Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước là (có ý nghĩa) như thế.

* * *

Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước là (có ý nghĩa) thế nào?

Với ý nghĩa của sự quán xét về vô thường là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về khổ não là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về vô ngã là minh sát. Do Niết Bàn là đối tượng của các pháp được sanh lên ở minh sát ấy, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. Vì thế được gọi là "Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước."

Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.

Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế. ...(như trên)...

Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Với ý nghĩa của sự quán xét sắc là vô thường là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét sắc là khổ não là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét sắc là vô ngã là minh sát. Do Niết Bàn là đối tượng của các pháp được sanh lên ở minh sát ấy, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. Vì thế được gọi là "Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước."

Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.

Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế. ...(như trên)...

Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Với ý nghĩa của sự quán xét thọ ...(như trên)... tưởng ...(như trên)... các hành ...(như trên)... thức ...(như trên)... mắt ...(như trên)... lão tử là vô thường là minh sát, ...(như trên)... lão tử là khổ não ...(như trên)... lão tử là vô ngã là minh sát. Do Niết Bàn là đối tượng của các pháp được sanh lên ở minh sát ấy, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. Vì thế được gọi là "Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước."

Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.

Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế. ...(như trên)...

Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước là (có ý nghĩa) như thế.

* * *

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung là (có ý nghĩa) thế nào?

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo 16 biểu hiện: theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng), theo ý nghĩa của hành xứ, theo ý nghĩa dứt bỏ, theo ý nghĩa buông bỏ, theo ý nghĩa thoát ra, theo ý nghĩa ly khai, theo ý nghĩa an tịnh, theo ý nghĩa cao quý, theo ý nghĩa được giải thoát, theo ý nghĩa của vô lậu, theo ý nghĩa vượt qua, theo ý nghĩa của vô tướng, theo ý nghĩa của vô nguyện, theo ý nghĩa của không tánh, theo ý nghĩa của nhất vị, theo ý nghĩa không vượt trội, theo ý nghĩa kết hợp chung.

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng) là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là cảnh (đối tượng). Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là cảnh (đối tượng). Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng) là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng)."

Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.

Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế. ...(như trên)...

Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng) là (có ý nghĩa) như thế.

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của hành xứ là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của hành xứ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của hành xứ."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa dứt bỏ là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang dứt bỏ) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang dứt bỏ) các uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa dứt bỏ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa dứt bỏ."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa buông bỏ là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang buông bỏ các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang buông bỏ) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang buông bỏ các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang buông bỏ) các uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa buông bỏ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa buông bỏ."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa thoát ra là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang thoát ra khỏi các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang thoát ra khỏi) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang thoát ra khỏi các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang thoát ra khỏi) các uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa thoát ra là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa thoát ra."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa ly khai là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang ly khai khỏi các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang ly khai khỏi) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang ly khai khỏi các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang ly khai khỏi) các uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa ly khai là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa ly khai."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa an tịnh là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, an tịnh, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là an tịnh có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của an tịnh là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa an tịnh."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa cao quý là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, cao quý, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là cao quý có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của cao quý là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa cao quý."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa được giải thoát là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, được giải thoát khỏi dục lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là được giải thoát khỏi các vô minh lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, sự ly tham ái khỏi các tham ái là sự giải thoát của tâm, sự ly tham ái khỏi vô minh là sự giải thoát của tuệ, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của được giải thoát là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa được giải thoát."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô lậu là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, vô lậu đối với dục lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là vô lậu đối với vô minh lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của vô lậu là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô lậu."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa vượt qua là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang vượt qua các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang vượt qua) các uẩn, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang vượt qua các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang vượt qua) các uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa vượt qua là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa vượt qua."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô tướng là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định vô tướng đối với tất cả các hiện tướng, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là vô tướng đối với tất cả các hiện tướng, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của vô tướng là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô tướng."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô nguyện là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định vô nguyện đối với tất cả các nguyện ước, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là vô nguyện đối với tất cả các nguyện ước, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của vô nguyện là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô nguyện."

Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của không tánh là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang dứt bỏ phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định không tánh đối với tất cả các cố chấp, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là không tánh đối với tất cả các cố chấp, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của không tánh là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của không tánh."

Tu tập: Có bốn sự tu tập: ...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.

Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế.

Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của không tánh là (có ý nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo 16 biểu hiện là (có ý nghĩa) thế. Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung là (có ý nghĩa) thế.

* * *

Tâm của vị tỳ khưu bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp là (có ý nghĩa) thế nào?

Đối với vị đang tác ý vô thường, có ánh sáng sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến ánh sáng rằng: "Ánh sáng là pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là khổ não, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngã. Vì thế, được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành cho vị ấy."

Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế. Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Đối với vị đang tác ý vô thường, có trí sanh lên, có hỷ sanh lên, có tịnh sanh lên, có lạc sanh lên, có sự cương quyết sanh lên, có sự ra sức sanh lên, có sự thiết lập sanh lên, có xả sanh lên, có ước muốn sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ước muốn rằng: "Ước muốn là pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là khổ não, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngã. Vì thế, được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành cho vị ấy: Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế. Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Đối với vị đang tác ý khổ não, ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý vô ngã, có ánh sáng sanh lên, ...(như trên)... có trí sanh lên, có hỷ sanh lên, có tịnh sanh lên, có lạc sanh lên, có sự cương quyết sanh lên, có sự ra sức sanh lên, có sự thiết lập sanh lên, có xả sanh lên, có ước muốn sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ước muốn rằng: "Ước muốn là pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngã, về sự thiết lập là vô thường, về sự thiết lập là khổ não. Vì thế, được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Đối với vị đang tác ý sắc là vô thường ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý sắc là khổ não, ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý sắc là vô ngã, ...(như trên)... thọ ...(như trên)... tưởng ...(như trên)... các hành ...(như trên)... thức ...(như trên)... mắt ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý lão tử là vô thường, ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý lão tử là khổ não, ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý lão tử là vô ngã, có ánh sáng sanh lên, ...(như trên)... có trí sanh lên, có hỷ sanh lên, có tịnh sanh lên, có lạc sanh lên, có sự cương quyết sanh lên, có sự ra sức sanh lên, có sự thiết lập sanh lên, có xả sanh lên, có ước muốn sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ước muốn rằng: "Ước muốn là pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về lão tử có sự thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về lão tử có sự thiết lập là khổ não, không nhận biết đúng theo thực thể về lão tử có sự thiết lập là vô ngã. Vì thế, được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành cho vị ấy."

Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý nghĩa) như thế. Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.

Rung động về ánh sáng,
về tuệ, và về hỷ,
về tịnh, và về lạc,
bởi chúng tâm xao động,
rung động về cương quyết,
ra sức, và thiết lập,
do hướng tâm đến xả,
và ước muốn về xả.

Vị nào huân tập tuệ
về mười trường hợp này
biết phóng dật do pháp
không sa vào lầm lẫn.

Bị tản mạn, ô nhiễm,
tu tập tâm đình chỉ;
tản mạn, không ô nhiễm,
tu tập bị thối thất;
tản mạn, không ô nhiễm,
tu tập không thối thất;
và khi không tản mạn
tâm không bị ô nhiễm
tu tâm không đình chỉ.

Với bốn trường hợp này,
hiểu rõ mười trường hợp
thâu hẹp và khuấy động
vì tản mạn của tâm.

Phần Giảng về sự Kết Hợp Chung.
--o0o--
Tỳ Khưu Indacanda
(Trích Dịch từ Patisambhidāmaggapāli - Phân Tích Đạo thuộc Tạng Kinh, Tiểu Bộ)

Nguồn Kinh trích dẫn:
Kinh Gắn Liền Cột Chặt (Yuganaddha Sutta, AN 4.170)
Việt dịch: Ngài Minh Châu.
…. (Ngài Ananda giảng tại Kosambi – Câu-diệm-bi) …

-- Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này. Thế nào là bốn?

(a) Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

(b) Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo tu tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

(c) Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

(d) Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo với các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

Yuganaddha Sutta: In Tandem
translated from the Pali by Thanissaro Bhikkhu

On one occasion Ven. Ananda was staying in Kosambi, at Ghosita's monastery. There he addressed the monks, "Friends!"

"Yes, friend," the monks responded.

Ven. Ananda said: "Friends, whoever — monk or nun — declares the attainment of arahantship in my presence, they all do it by means of one or another of four paths. Which four?

"There is the case where a monk has developed insight preceded by tranquillity. As he develops insight preceded by tranquillity, the path is born. He follows that path, develops it, pursues it. As he follows the path, developing it & pursuing it — his fetters are abandoned, his obsessions destroyed.

"Then there is the case where a monk has developed tranquillity preceded by insight. As he develops tranquillity preceded by insight, the path is born. He follows that path, develops it, pursues it. As he follows the path, developing it & pursuing it — his fetters are abandoned, his obsessions destroyed.

"Then there is the case where a monk has developed tranquillity in tandem with insight. As he develops tranquillity in tandem with insight, the path is born. He follows that path, develops it, pursues it. As he follows the path, developing it & pursuing it — his fetters are abandoned, his obsessions destroyed.

"Then there is the case where a monk's mind has its restlessness concerning the Dhamma [Comm: the corruptions of insight] well under control. There comes a time when his mind grows steady inwardly, settles down, and becomes unified & concentrated. In him the path is born. He follows that path, develops it, pursues it. As he follows the path, developing it & pursuing it — his fetters are abandoned, his obsessions destroyed.

"Whoever — monk or nun — declares the attainment of arahantship in my presence, they all do it by means of one or another of these four paths."


[PTS: A, II, 156]
(Arahattappattisutta)

Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme. Tatra kho āyasmā ānando bhikkhū āmantesi; āvuso bhikkhavoti. Āvusoti kho te bhikkhū āyasmato ānandassa paccassosuṃ. Āyasmā ānando etadavoca:

Yo hi ko ci āvuso bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ vyākaroti. Sabbo so catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarena. Katamehi catūhi?
Idha āvuso bhikkhu samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti. Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Puna ca paraṃ āvuso bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti, tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Puna ca paraṃ āvuso bhikkhu samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāveti. Tassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Puna ca paraṃ āvuso bhikkhuno dhammuddhaccaviggahītaṃ mānaṃ hoti. So āvuso samayo yantaṃ cittaṃ ajjhattaṃyeva santiṭṭhati sannisīdati ekodihoti samādhiyati. Tassa maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.

Yo hi ko vi āvuso bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ vyākaroti, sabbo so imehi catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarenāti.

P/s:
Sự khác biệt giữa thiền Định trong đạo Phật và thiền Định ngoài đạo Phật: Ngoài đạo Phật, hành giả tu tập thiền Định, có thể đắc đến tầng định cao nhất, có thể đắc thần thông; và thấy rằng đã đạt đến cứu cánh cùng tột, mục đích giải thoát đã đạt được. Ở đạo Phật, sau khi tu tập thiền Định (Chỉ tịnh) rồi, hành giả cần phải tiếp tục tu tập Minh sát. Định đạt được do nhờ trạng thái tâm chuyên nhất, không tán loạn, được thúc đẩy bởi sự ly dục, ly ác pháp. Minh sát đạt được sau khi quán xét các pháp do Định sinh lên đó là vô thường, quán xét các pháp do Định sinh lên đó là khổ, quán xét các pháp do Định sinh lên đó là vô ngã; trong ý nghĩa sự tu tập Minh sát có Chỉ tịnh đi trước.

Monday, October 15, 2012

Tình yêu có lúc tự tìm đến với ta trong đêm tối cô đơn...

Đêm. Trời không trăng, không cả những vệt sáng le lói trên cao. Chỉ có cái ẩm ướt mùa mưa xứ Huế và chút xào xạc của những cơn gió đầu mùa...

Con bé ngồi đó, lọt thỏm giữa những tiếng hò reo cổ vũ, những gương mặt phấn khích nói cười. Cảm giác trống rỗng, con bé thấy mình lạc lõng giữa đám bạn xô bồ, dẫu có lúc họ từng là niềm vui mà đứa con gái lần đầu tiên xa nhà như nó cứ ngỡ là mãi mãi.


Trước khi vào đại học, con bé từng tự lên giây cót tinh thần cho mình, rằng cấp học này không có chỗ cho những tình bạn thật sự... Biết vậy, nhưng một con bé vốn tinh nghịch và ham vui như nó khó lòng cưỡng lại sức hấp dẫn của những cuộc vui quên giờ giấc, nhất là khi không hề có sự quản lý của ba má. Nó bắt đầu lao mình vào những tiếng cười, tự huyễn hoặc mình bằng thứ niềm tin xa lạ.


Nhưng rồi cũng đến lúc con bé nhận ra sự trống trải cứ lẩn khuất đâu đó bên trong tâm hồn nó. Khi tiếng cười qua đi, còn lại nơi căn trọ nhỏ chỉ là nó với những giọt mặn khẽ khàng nhỏ trong đêm. Không một bàn tay chìa ra chia sẻ, cho dù trong ánh đèn leo lét ban khuya, con bé vẫn nhìn rõ đôi mắt nhắm nghiền của nhỏ bạn một thời, thấy ngực nhỏ phập phồng theo nhịp thở của giấc ngủ sâu…


Cố lờ đi cái cảm giác cay cay nơi sống mũi, con bé lặng lẽ rời khỏi căn phòng ồn ào nhưng rỗng tuếch. Bước chân vô định đưa nó trở lại con đường quen thuộc mà ngay lúc ấy cũng dường như quá xa lạ. Có lẽ, con bé nghĩ, sự vắng mặt của nó cũng chẳng khiến ai bận tâm, không phải chỉ vì trận chung kết bóng đá hôm đó mà còn vì cái vị trí mà nó có trong họ. Nhạt nhoà quá đỗi? Vì con bé chẳng đáng để người ta hiểu hay người ta không đủ sự nhạy cảm và lòng chân thành để có thể hiểu nó? Câu hỏi ấy cứ xoáy sâu vào tâm can nó... nghe mằn mặn đầu môi...


Con phố dài bỗng lao xao, ồn ào. Từng dòng người túa ra đường, không một tiếng hò reo. Con bé đoán trận bóng đã kết thúc, và đội nhà lại một lần nữa lỡ hẹn với chiếc cúp vàng Seagame. Mặc kệ, đó đâu phải là thứ nó quan tâm. Nhưng giờ này có lẽ mọi người trong căn trọ ấy đã nhận ra sự thiếu vắng của nó, con bé tự nhủ. Nó miễn cưỡng quay lại con đường cũ, cảm giác như có cơn mưa đang tuôn rả rích trong lòng.


Phố đêm. Người người hối hả. Hàng quán tấp nập. Mấy quầy nét người ra kẻ vào, ai đó đang dõi theo nó...


- Đi mô khi chừ rứa? - Giọng Huế ngập ngừng nhìn con bé.


- Uhm... Vào quán chat với mấy nhỏ bạn.


Con bé ậm ừ bước tiếp, cố tỏ ra thản nhiên. Nhưng vẫn cảm nhận rõ rệt cái gì đấy đang khẽ trở mình bên trong nó. Không phải ai khác mà chính là anh, và chỉ anh, một trong số những cậu bạn cùng lớp thường lui tới xóm trọ nhỏ của con bé. Người nó ít tiếp xúc, ít để ý nhất lại là người đầu tiên và duy nhất quan tâm đến nó.


Trong bóng tối, anh không nói gì, chỉ khẽ nhìn rồi lặng lẽ bước bên con bé. Hai cái bóng cứ đổ dài trong im lặng suốt con hẻm nhỏ. Tiếng sỏi vụn rải trên đường va vào nhau lạo xạo...


Rẽ vào con đường đất dẫn đến xóm trọ quen thuộc, con bé bước vào căn phòng ồn ào ban nãy, cũng lặng lẽ hệt như lúc ra đi. Trận bóng chưa kết thúc, nhưng đội nhà đã bị dẫn trước quá xa khiến chẳng ai còn hứng hò hét cổ động. Chiếc vô tuyến vẫn mở, con bé hướng mắt vào đó nhưng tâm trí thì cứ ở tận đâu đâu... Đến khi giật mình nhìn lại, căn phòng nhỏ chỉ còn lại nó và anh. Họ nói với nhau một vài câu bâng quơ rồi lại ngồi lặng thinh, mỗi người đeo đuổi một ý nghĩ riêng, mắt vẫn không rời màn hình vô tuyến. Sự im lặng cứ thế vây lấy hai bóng người, nhưng lại khiến con bé thấy dễ chịu. Cảm giác ấy khiến một người thích tiệc tùng náo nhiệt như nó bỗng dưng thấy lạ lẫm với chính mình.


Hàng chục phút như thế trôi qua, khi căn phòng ấm dần hơi thở của hai con người bé nhỏ cũng là lúc dòng suy nghĩ miên man trong con bé bị cắt đứt. Có tiếng ai đó lộp cộp bước vào phòng. Nó nhận ra Q., cậu bạn có thân hình cao lớn, phốp pháp, cũng là một trong số những người bạn mới vui vẻ, dễ gần mà nó đã quen thân từ vài tháng trước. Với nụ cười trẻ con thường trực, Q. hỏi nó tối nay có rãnh không, nếu được thì viết cho cậu vài câu thư pháp để về “khoe” với đám bạn cùng phòng. Con bé gật đầu, vờ nhìn vào những câu danh ngôn Q. tỉ mẫn chép ra tờ giấy A4 mà lòng không một chút xúc cảm. Thói quen và cũng là sở thích viết thư pháp tặng bạn bè giờ này chẳng còn mảy may nghĩa lý gì với nó.


Q. quay sang anh - vẫn im lặng suốt từ khi cậu bước vào phòng. Con bé loáng thoáng nghe Q. đề nghị cho anh quá giang về nhà bằng chiếc xe đạp cọc cạch. Phải rồi, chiều nay anh đi bộ về xóm trọ cùng với cả bọn mà, con bé thầm nghĩ. Anh ậm ừ. Không nhìn vào mắt anh, nhưng nó biết anh đang lưỡng lự. Vì sao vậy nhỉ, con bé tự hỏi. Rồi bỗng nhiên nó cảm giác mình cũng cùng chung tâm trạng ấy. Lưỡng lự, hy vọng, dù chẳng hiểu đang hy vọng điều gì. Cái cảnh một mình nép sau mái hiên xóm trọ, nấc nghẹn trong bóng tối mỗi đêm tự dưng hiện về như nhắc nhở thúc bách nó. Nó lại nghĩ đến người con trai đã ngồi thật lâu bên mình mươi phút trước, cảm giác một điều gì đó sắp vuột mất.


- Nếu chưa gấp lắm thì tí nữa hãy về, được hông?


Con bé giật mình khi hiểu ra chuỗi âm thanh vừa phát ra. Nó thậm chí còn chưa bao giờ nói chuyện với anh một cách nghiêm túc. Nhưng rồi, con bé chợt hiểu, chỉ cần một ai đó muốn hiểu nó, bên cạnh nó lúc này, dù chỉ trong im lặng…


Rồi anh cũng lên tiếng. Cậu bạn cao lớn khuất dần sau con hẻm tối... Hai cái bóng lại ngồi bất động bên nhau. Con bé nghe lòng nhẹ nhõm. Có một người đã nán lại vì nó. Chỉ cần như thế thôi để nó biết vẫn còn ai đó muốn chia sẻ cùng mình.


Anh hỏi con bé rất nhiều. Nhưng nó chỉ ôm gối và lắc đầu, dẫu có biết bao điều muốn chia sẻ, rằng mình đang mất niềm tin vào quá nhiều thứ... Và chỉ cần anh ngồi đó, trong im lặng, vậy là đủ.


Chẳng biết con bé đã ngồi như thế trong bao lâu, chẳng nhớ nó và anh đã nói với nhau những gì, chỉ biết rằng sau đêm ấy trời trở rét. Anh nói, Huế lạnh hơn để người ta biết mình đang được sưởi ấm. Và mãi đến bây giờ, con bé vẫn còn ngạc nhiên vì ngọn lửa đã sưởi ấm lòng mình suốt mùa đông năm ấy...


Huế, tháng 7/2006.

Cám ơn Thùy Linh vì bài viết!
Một người anh không xa lạ :)