Wednesday, May 27, 2015

10 Reasons You Need to Go to Myanmar

I’ve been traveling around Asia for over three years, but it wasn’t until recently that I traveled to Myanmar, also known as Burma. And I will say it right now: It’s an insane, beautiful, challenging, and hilarious country, and it simply blew my mind. Whenever I meet backpackers, I always say to them, “You have to go to Myanmar. It’s a life-changing experience.” Many people skip Myanmar for the easier, well-known backpacker route, which begins in Thailand and then goes through Laos, Cambodia, and Vietnam. But in my opinion, Myanmar offers more than all of the other countries of Southeast Asia thrown together. Here’s why. 

1. The people are so, so kind.

For true hospitality, travel to Myanmar. Out of all of the Asians I’ve met, the people in Myanmar are the kindest, most friendly people. They’re willing to go above and beyond to be friends with you, help you out, and make sure you are having a great time in their country. They always seem to be happy, smiling, and keen to practice their English over a glass of tea.

They can be quite shy people, as they are extremely polite, but once you get to know them, they open up. Kids, however, tend to be the exception to the rule. They will run up to you to practice their English, and unlike the rest of Asia, they never hassled me for money. The people of Myanmar left a lasting impression on me. I felt as though I could truly trust them, and I made some incredible connections with locals I met along the way.

2. The temple ruins are amazing.

When most people think of lost cities, they immediately think of Angor Wat in Cambodia, or maybe Hampi in India. But the ruins of Bagan in central Myanmar are without a doubt the most stunning, least-touristy ruins I have ever seen. I spent an incredible few days there, exploring the area by bike, watching the sun set over Bagan’s temple-studded plains, and making friends with the local kids out to practice their English. For the true adventurer, you can head even deeper into the country’s largely unexplored regions and visit the stunning temple ruins at Mrauk Au. They are so remote that you will probably have them all to yourself.

3. There is room to truly explore. 

Myanmar is an absolutely massive country, and there are many hidden gems that only locals know about. It is extremely easy to get off the beaten track, and to have temples, ruins, mountains, and caves all to yourself. When I was backpacking in Myanmar, I felt like I had stepped back 100 years into the past, like a proper explorer.

The people I met in remote communities in the Shan highlands had often not seen another westerner for months or even years. And while I was exploring the south of the country, I came across a huge field of painted Buddha statues. Some were cracked and covered by the jungle; others looked freshly painted. Who built them, painted them, and maintained them? I have absolutely no idea. And that is why I love Myanmar.

4. The hiking is incredible.

Trekking in Myanmar is a relatively new activity, but tour agencies are already stepping up to cater toward adventurous backpackers. Most backpackers opt for a two-day trek around the stilt villages of Inle Lake, but for an even more remote experience, head deep into the Shan highlands, or south to Hp-Pan.

Here, you can summit jungle-clad limestone peaks — many of which are topped by small monasteries — and soak in some spectacular views. Trekking in Myanmar is a really amazing experience. I met colorful freshwater crabs, hiked through mist-draped forests, and shared tea with novice monks who spoke no English, but always seemed happy to see me.

5. There are monks. Lots of monks.

Speaking of monks, it’s pretty hard to travel in Myanmar without meeting a few amazing ones. I had some very heady discussions with monks I met in temples, on buses, in the street, and even while riding my bicycle. The monks are a friendly bunch, and they’d often ask me all kinds of questions, from what life is like outside Myanmar to spirituality to football (yes, football!).

A monk told me that monks make up one percent of Myanmar’s entire population, and they certainly do seem to be everywhere. One experience in particular stands out. While I was trekking, I met a shy monk who was working on repairing a temple wall. We chatted for a while, and I spent an hour or so helping him. Then, he offered me tea and we talked even more. Because of that experience, I came away with a much richer understanding of what Buddhism is all about.

6. The food is delicious.

“Really? The food’s okay?” you may ask. Yes, food is better than okay. The cuisine in Myanmar is some of the best in Asia. Sure, there may not be many Burmese restaurants outside of Myanmar, but that’s largely because the country has been shut off from the rest of the world for so long. The food is an eclectic mix of Thai, Chinese, and Indian cuisine, and basically includes all the best bits from each.

A couple dishes to look out for:

*Gyin Thohk: tasty ginger salad with sesame seeds.

*Kat Kyi Hnyat: the Burmese answer to Pad Thai. It’s a gorgeous coastal dish that consists of rice noodles, seafood, meats, raw bean sprouts, and fried eggs.

*Danbauk: a tasty Indian-inspired curry served with mango pickle, fresh mint, and green chili.

*Shan Tofu: awesome homemade tofu from the Shan highlands.

7. The beer is cheap. And good.

I have made it a personal mission to sample as many local beers throughout the world as I possibly can. And so far, Myanmar Beer is without a doubt my favorite brand. For just 50 cents, you can have a cool, refreshing, tap-drawn beer in an iced glass. For five bucks, you can get well and truly merry. Mandalay Beer makes a tasty alternative if you get sick of Myanmar Beer, but I can almost guarantee you won’t.

8. The beaches!

Most backpackers are not yet aware that Myanmar has some of the most beautiful beaches and islands in the world. Until recently, these palm-fringed, white-sand playgrounds were off limits unless you had a super-yacht handy, but this is changing fast. Every week, more and more restrictions are being lifted.

Now is the perfect time to travel to Myanmar and hunt for your dream island. Think coral blue waters, coconut cocktails, and perfect sandy beaches. There are over 800 empty islands in Myanmar’s Mergui archipelago, which means that now is a great time to head out on a kayak or boat and discover paradise in the ocean.

9. It has really cool caves.

When I’m traveling, I’m always looking for adventurous ways to keep myself busy, whether it’s living in a cave with a Bedouin or mountain biking through the jungles of Laos. In Myanmar, there are a ton of activities for the adventurous traveler, but one of the best has got to be exploring some of its huge caves.

Many of these are not covered by any guidebook; it’s simply a case of asking around and seeing if there are any cool caves nearby. One of the biggest caves that I visited was in the south of the country, and was filled with huge Buddha images and statues as well as some beautiful rock formations. I walked through it for over an hour before I emerged on the other side to find a hidden lake framed by a backdrop of limestone mountains. To this day, that is still one of the most beautiful things I have ever discovered while backpacking.

10. It’s changing fast.

Myanmar has become THE place to go. I was lucky enough to first visit in 2012, when I met perhaps a dozen backpackers in my entire time there. But these days, more and more backpackers are tagging the country on to the classic Thailand/Laos/Vietnam/Cambodia route, and rightly so!

However, as the country continues to open up and as investments and travelers alike continue to pour in, it is only a matter of time before some of Myanmar’s most enchanting attractions become diluted. Luckily, the country is so big that there is still plenty of room, and plenty of wild places left for backpackers to explore. So do not hesitate. Visit this incredible land now, meet the wonderful people, have a beer (or three) and explore until your heart’s content.

By Will Hatton.

Tám Điều Suy Tưởng của Bậc Đại Nhân


Sau khi được phép của Đức Phật, Đại Đức Anuruddha vào rừng trúc để hành thiền. Theo chú giải Đại Đức Anuruddha đã tinh tấn thực hành trong vòng nửa tháng, phần lớn là đi kinh hành. Đến ngày thứ mười lăm, cảm thấy mỏi mệt vì kinh hành lui tới quá nhiều, Ngài ngồi nghỉ dưới một khóm trúc. Lúc ngồi dưới khóm trúc xét lại việc hành thiền của mình, xem thử phải làm những gì để đi đến giác ngộ, và “bảy điều suy tưởng” hay “bảy tư tưởng” sau đây đã khởi sinh trong Ngài:
1. Tư tưởng thứ nhất: Thiểu dục. Người muốn giác ngộ đạo quả Niết Bàn cần phải có ít nhu cầu hay “Thiểu dục”. Pháp giải thoát không dành cho người có nhiều nhu cầu. Điều này có nghĩa là giáo pháp chỉ có thể thành đạt ở những người ít tham muốn và không thể thành đạt bởi những ai có nhiều tham muốn, nhiều nhu cầu. Thiểu dục, ít ham muốn là điều kiện để thành đạt giáo pháp, giác ngộ đạo quả; đó là những đặc tính được Đức Phật tán dương. Đó là đặc tính mà mọi vị Tăng và thiền sinh phải phát triển. Nếu chúng ta muốn nhiều thứ thì chúng ta không thể hành thiền được. Nếu chúng ta muốn kết quả, nếu chúng ta muốn định tâm, nếu chúng ta muốn xuyên suốt chân lý, nếu chúng ta muốn có nhiều Trí Tuệ thì chúng ta sẽ không đạt được tiến bộ trong việc hành thiền.
Có bốn loại thiểu dục (ít tham muốn):
a) Ít tham muốn hay thiểu dục về phương diện tứ vật dụng: Thức ăn, nhà ở, y phục, thuốc trị bệnh.
b) Ít tham muốn hay thiểu dục về phương diện chứng đắc thiền hay giác ngộ đạo quả. Chúng ta không được khoe khoang sự giác ngộ của mình khi đạt được sự giác ngộ. Chúng ta phải giữ sự giác ngộ bên trong ta và không được để cho người khác hay biết về sự giác ngộ của mình. Không thố lộ hay khoe khoang về sự giác ngộ của mình giúp chúng ta vun bồi đức khiêm nhường.
c) Ít tham muốn hay thiểu dục về phương diện phô bày kiến thức. Thiểu dục cũng còn được áp dụng cho việc học hỏi. Dầu cho bạn có học thuộc lòng Tam Tạng Kinh Điển, bạn cũng không nên khoe khoang hay thố lộ kiến thức hay sự hiểu biết của mình.
d) Ít tham muốn hay thiểu dục về phương diện thực hành giáo pháp. Khi một nhà Sư nguyện thực hành hạnh Đầu Đà thì cũng phải thực hành thế nào để những người khác không biết rằng mình đang thực hành hạnh Đầu Đà. Phải luôn luôn khiêm nhường.
Thiểu Dục là một đặc tính tốt đẹp của nhà Sư cũng như của thiền sinh. Chỉ những kẻ thiểu dục mới thành tựu giáo pháp. Những kẻ tham muốn nhiều không thể thành tựu mục đích giải thoát. Đó là tư tưởng đầu tiên đến với Anruddha.
2. Tư tưởng thứ hai: Tri túc hay bằng lòng với những gì mình có. Sự thành tựu giáo pháp chỉ đạt được với người biết hài lòng với những gì mình đã có. Sự thành tựu giáo pháp không đến với người không hài lòng hay bất mãn. Giáo pháp, đạo quả chỉ có thể thành tựu bởi những người biết hài lòng. Biết hài lòng là một đặc tính tốt đẹp. Biết hài lòng có nghĩa là hài lòng với những gì đã có, hài lòng với những gì mình nhận được. Nếu bạn có một vật gì đó thì bạn hãy hoan hỷ và bằng lòng với vật đó. Đừng mong muốn vật khác. Khi có ai cho bạn vật gì, bạn phải vừa lòng với vật đó. Đừng nói ‘tôi không muốn cái này, hãy cho tôi cái kia’, hay ‘tôi muốn cái kia, tôi không muốn cái này’. Đó là thái độ không hài lòng, là tham. Thiền sinh phải hài lòng với những gì mình gặt hái được cũng như với những gì mình có. Chỉ những người biết hài lòng mới có thể thành tựu giáo pháp, giác ngộ, đạo quả. Hài lòng là một đặc tính tốt đẹp lớn lao. Đó là đặc tính đòi hỏi các thiền sinh và các nhà Sư phải có.
3. Tư tưởng thứ ba: Thích ẩn cư. Sự giác ngộ Đạo, Quả, Niết Bàn chỉ đạt được đối với người thích ẩn cư, không thể thành tựu đối với người thích quần tụ. Có ba loại ẩn cư: thân ẩn cư, tâm ẩn cư và tị phiền não ẩn cư. Đến một nơi thanh tịnh để hành thiền, đó là điều tốt. Hành thiền trong thành phố rất khó vì có nhiều tiếng động ồn ào. Nếu chọn được một nơi an tịnh ít tiếng động, ít gặp những cảnh dễ làm ta phóng tâm, thì đó là nơi để cho thân ẩn cư. Một nơi an tịnh rất thích hợp cho việc hành thiền. Tuy nhiên, đối với một số người lúc đầu rất khó sống ẩn cư. Một thiền sinh có lần đến than phiền với tôi: “Ở đây im lặng quá rất ít những điều làm phóng tâm. Chúng ta cần phải tạo ra những gì dễ làm thiền sinh phóng tâm để thiền sinh đương đầu với chúng”. Có lẽ một số thiền sinh quen với chỗ ồn ào, náo nhiệt nên cảm thấy thật khó chịu khi ẩn cư nơi yên tĩnh, vắng lặng.
Chỗ tốt nhất để hành thiền là chỗ yên lặng và ít người lui tới, không bị muỗi mòng, côn trùng quấy nhiễu, có đủ chỗ để đi kinh hành, có chỗ ngủ đơn giản sạch sẽ. Trong một nơi như thế mà bạn hành thiền không tiến bộ thì chỉ mình bạn mới là người đáng trách chứ không phải hoàn cảnh hay nơi chốn ẩn cư. Theo chú giải: tâm ẩn cư là hành thiền cho đến khi đạt được các tầng thiền. Chỉ khi nào tâm nhập trong thiền thì tâm mới ẩn cư khỏi các phiền não trong một thời gian dài. Tâm ẩn cư là một bước rất tốt đẹp, nhưng chưa đủ. Bạn cần đi thêm một bước xa hơn là thực hành Thiền Minh Sát. Khi bạn hành Thiền Minh Sát một cách tốt đẹp, và giác ngộ đạo quả thì tâm sẽ giải thoát khỏi tất cả mọi phiền não. Đó gọi là giai đoạn “tị phiền não ẩn cư”.
Chúng ta ít nhất cũng phải có được thân ẩn cư và tâm ẩn cư, và cuối cùng ta có thể giác ngộ đạo quả, thành tựu giáo pháp. Giáo pháp không thể đạt được đối với người thích quần tụ. Quần tụ ở đây có hai nghĩa: Quần tụ với người khác, và Quần tụ với phiền não.
Chúng ta có thể tránh quần tụ với người khác bằng cách đi vào một nơi ẩn cư vắng lặng, không có ai chung quanh, nhưng tâm chúng ta lại đầy tham ái dính mắc. Như vậy mặc dầu chúng ta ở giữa rừng sâu, nhưng tâm bị phiền não quấy rầy thì cũng chưa phải là ẩn cư. Giáo pháp không thể được thành tựu đối với những người thích quần tụ với người khác, thích nhiều hoạt động với người khác, thích những tư tưởng thế tục, tâm đầy phiền não. Giáo pháp không thể thành tựu đối với những người như vậy.
4. Tư tưởng thứ tư: Tinh tấn. Sự thành tựu giáo pháp chỉ đến với người tinh tấn. Sự thành tựu giáo pháp không đến với người làm biếng. Chỉ có người tinh tấn mới đạt thành đạo quả. Việc hành thiền đòi hỏi phải có nỗ lực tinh tấn. Không tinh tấn thì không thể giữ tâm trên đề mục. Như vậy sẽ không có Chánh Niệm. Không có Chánh Niệm thì không có Định tâm và kết quả là không có Trí Tuệ hay không có sự xuyên thấu vào sự vật.
Tinh tấn là một yếu tố quan trọng trong việc hành thiền. Tinh tấn bao gồm cả hai phương diện thể chất lẫn tinh thần. Nhờ tinh tấn thể chất, bạn mới có thể ngồi xếp bằng, lưng giữ thẳng và mới có thể thực tập kinh hành. Nhờ tinh tấn tinh thần tâm mới ở thường trực trên đề mục hiện tại.
Trong việc hành thiền cần có đủ cả tinh tấn thể chất lẫn tinh tấn tinh thần. Chỉ người tinh tấn mới thành tựu đạo quả, người chây lười biếng nhác không thể thành tựu pháp cao thượng. Lười biếng hành thiền có thể do ở chỗ thiếu thỏa thích trong việc hành thiền. Lười biếng cũng có thể do ở việc thực hành nữa: Khi việc hành thiền không tiến triển tốt đẹp; khi bạn không thể tập trung tâm ý; khi bạn không đạt kết quả tốt trong việc hành thiền, bạn trở nên thất vọng và buồn chán. Điều này có thể khiến bạn làm biếng, không muốn hành thiền, nhiều khi còn muốn từ bỏ hết việc hành thiền nữa. Lười biếng là một chướng ngại, là một hiểm nguy trong việc hành thiền. Bởi vậy cần phải loại trừ tâm lười biếng ngay khi nó vừa khởi sinh.
Có thể loại trừ tư tưởng chây lười, biếng nhác trong việc hành thiền bằng cách suy tư đến những lợi ích do việc hành thiền đem lại. Khi Chánh Niệm ghi nhận đề mục hiện tại, tâm bạn an lạc tĩnh lặng. Sự an lạc tĩnh lặng này là kết quả trực tiếp của việc hành thiền. Còn rất nhiều lợi ích khác, bao gồm việc bạn có đủ khả năng, can đảm và nghị lực để đương đầu với những vấn đề xảy ra trong cuộc sống hằng ngày. Lợi ích tối thượng của thiền sinh là thoát khỏi mọi phiền não. Nghĩ đến những lợi ích của việc hành thiền sẽ khích lệ bạn tinh tấn nhiều hơn. Bạn có thể tự nhủ: nếu mất cơ hội hành thiền này ta sẽ tiếc nuối về sau, người nào bỏ lỡ cơ hội này sẽ đau khổ trong tương lai.
Bạn có thể khích lệ tâm mình bằng cách đọc kinh sách. Trong kinh Pháp cú có những câu khích lệ sự tinh tấn của bạn, nhất là lúc bạn đang bị sự chây lười, biếng nhác chi phối khiến bạn chẳng muốn hành thiền. Một câu Pháp Cú nói: “Đừng bỏ qua cơ hội này. Người nào bỏ qua cơ hội này sẽ sầu muộn, đau khổ vì phải sinh vào cõi Địa Ngục”. Ngay khi không bị sinh vào Địa Ngục, bạn cũng sẽ âu sầu, phiền muộn khi bỏ qua dịp này. Trong một câu khác, Đức Phật dạy: “Sống một trăm năm chây lười biếng nhác, không bằng sống một ngày tinh tấn cần chuyên”. Trăm năm biếng nhác không đổi được một ngày tinh tấn. Suy tư như vậy sẽ là động cơ thúc đẩy bạn hành thiền.
Giáo Pháp không thể thành tựu đến người chây lười biếng nhác, đến người không cố gắng hành thiền, và đến người không chịu hành thiền. Giáo Pháp chỉ thành tựu đến người nỗ lực tinh tấn hành thiền.
5. Tư tưởng thứ năm: Chánh Niệm. Sự thành tựu giáo pháp chỉ thành tựu đến người có tâm Chánh Niệm (người hành Thiền Minh Sát). Giáo pháp không thành tựu đến người thất niệm (người không hành thiền, người không Chánh Niệm, người biếng nhác). Thiền sinh phải hành thiền một cách tinh tấn, chánh niệm để đạt kết quả tốt đẹp, đó là chứng ngộ đạo quả. Nếu không hành thiền chúng ta sẽ không có chút hi vọng nào giải thoát khỏi các phiền não, và do đó không thể thoát khỏi khổ đau.
Muốn thiết lập chánh niệm vững chắc, chúng ta chỉ cần làm một điều thôi, đó là chú tâm chánh niệm một cách đúng đắn. Ngoài Chánh Niệm ra, không có con đường nào khác để phát triển Trí Tuệ. Nhờ thực tập Chánh Niệm chúng ta sẽ đạt được Chánh Niệm vững chắc, sâu xa và xuyên suốt. Chính Chánh Niệm là nhân của Chánh Niệm. Chánh Niệm trước vun bồi khiến Chánh Niệm sau mạnh mẽ hơn và đưa đến sự tập trung tâm ý một cách tốt đẹp. Sự tập trung tâm ý tốt đẹp đó là tâm Định. Như vậy, giáo pháp chỉ thành tựu với người thực hành chánh niệm. Giáo pháp không thể thành tựu với người thiếu chánh niệm, người không thực hành chánh niệm.
6. Tư tưởng thứ sáu: Chánh Định. Giáo pháp chỉ thành tựu đến người có Định Tâm. Giáo pháp không thành tựu đến người có tâm tán loạn. Một điều chúng ta thấy rõ là người có tâm tán loạn không thể nào thành tựu giáo pháp. Muốn thành tựu giáo pháp phải có sự tập trung tâm ý. Chỉ khi nào có Định Tâm lúc ấy mới có Trí Tuệ; điều này có nghĩa là có sự hiểu biết sáng suốt, xuyên thấu vào sự vật để thấy rõ bản chất thật sự của sự vật. Đức Phật đã dạy: “Này các thầy tỳ khưu, hãy tinh tấn thực hành pháp định tâm. Khi tâm định tốt đẹp các thầy sẽ thấy rõ bản chất thật sự của mọi sự vật”.
Định Tâm là một yếu tố thiết yếu trong việc thực hành Thiền Minh Sát. Định Tâm phải được Chánh Niệm hỗ trợ, và Chánh Niệm phải được Tinh Tấn hỗ trợ. Do tích cực tinh tấn, bạn có thể giữ tâm mình trên đề mục, theo dõi đề mục. Khi tâm bạn đã nằm vững chắc trên đề mục thì đó là lúc Định Tâm đến. Một khi đã có được Định Tâm, an tịnh, tĩnh lặng; tâm sẽ ở trên đề mục một thời gian đủ dài, lúc bấy giờ, Trí Tuệ, sự hiểu biết đề mục, sẽ tự động đến. Giáo pháp chỉ thành tựu đến những người có Định Tâm; giáo pháp không thể thành tựu đến những người có tâm lang bạt phóng túng.
7. Tư tưởng thứ bảy: Trí Tuệ. Giáo pháp chỉ thành tựu đến những người có Trí Tuệ. Theo chú giải, người sáng suốt hay người có Trí Tuệ có nghĩa là người có sự hiểu biết về nghiệp báo, biết rằng nghiệp là gia tài, là của thừa kế của mình. Điều này có nghĩa là có sự tin tưởng vào luật nghiệp báo, có sự hiểu biết về luật nhân quả. Chỉ những người có sự hiểu biết căn bản này mới có thể hành thiền đạt được kết quả, thấy rõ giáo pháp. Giáo pháp chỉ dành cho người có sự sáng suốt, cho người có sự hiểu biết luật nghiệp báo, nhân quả. Giáo pháp không thể thành tựu đến những người không hiểu biết điều này.
Đó là bảy tư tưởng đã xuất hiện trong tâm của Đại Đức Anuruddha trong khi đang ngồi dưới bóng mát của khóm trúc. Trong khi đó, Đức Phật đang ở chỗ ngụ của mình hiểu được những tư tưởng của học trò, bèn đến giúp Đại Đức Anuruddha và nói: “Này Anuruddha! Con có những suy nghĩ như vậy là đúng lắm, tốt lắm; nhưng cần thêm một điều nữa”.
Và Đức Phật đã thêm vào tư tưởng số tám, đó là:
8. Hướng đến giải thoát, Niết Bàn. Đức Phật dạy Đại Đức Anuruddha: “Giáo pháp hay đạo quả Niết Bàn chỉ có thể thành tựu bởi người có tâm mong muốn, thích thú trong Niết Bàn”.
Đức Phật dùng chữ Papañca trong câu nói của Ngài: “Giáo pháp hay đạo quả Niết Bàn chỉ có thể thành tựu bởi người có tâm mong muốn thoát khỏi những trạng thái Papañca (mở rộng)”. Papañca có nghĩa là Tham Ái, Tà Kiến và Mạn (so sánh hơn thua). Papañca còn có nghĩa là nới rộng, bành trướng, làm cho lớn hơn, làm cho dài hơn. Bao lâu chúng ta còn có Tham Ái, còn hiểu biết sai lầm (Tà Kiến), còn Ngã Mạn, bấy lâu chúng ta còn luân lưu trong vòng tái sinh. Do còn Tham Ái, Tà Kiến và Mạn nên chúng ta sẽ lang thang trong vòng luân hồi nhiều lần, nhiều lần nữa. Đó là vì chúng ta muốn kéo dài sự luân lưu. Bởi thế chúng ta được gọi là ở trong trạng thái Papañca, là trạng thái bành trướng hay kéo dài. Một khi, đã thoát khỏi trạng thái Papañca nghĩa là thoát khỏi Tham Ái, Tà Kiến và Mạn thì đó là Niết Bàn; có nghĩa là người thích thú giải thoát, Niết Bàn. Chỉ những người có sự thích thú giải thoát, Niết Bàn, có sự nỗ lực thực hành mới có thể đạt được giáo pháp cao thượng, đạo, quả và Niết Bàn. Đạo quả và Niết Bàn không thể đến được với người còn có tư tưởng muốn luân lưu vòng sinh tử.
Trong thực hành, muốn hướng đến Niết Bàn, chúng ta phải hướng tâm đến sự vô thường, sự sinh diệt, sự tan biến của mọi sự vật. Có thấy được thế gian vô thường, có thấy rõ mọi sự vật đều không vững bền đến rồi đi và đang ở trạng thái hoại diệt thì ta mới ý thức được rằng chẳng có gì trên thế gian này có tầm quan trọng đến nỗi ta phải tham luyến dính mắc vào. Thấy được như thế, hiểu được như thế thì Tham Ái, Tà Kiến, Mạn mới vắng bóng, và đó mới là Niết Bàn.
Tư tưởng thứ tám là tư tưởng quan trọng nhất. Bảy tư tưởng đầu tiên là những điều kiện hay những yếu tố tiên quyết trong việc hành thiền, nhưng bảy yếu tố này chỉ đóng vai trò như những dụng cụ hay phương tiện thôi chứ chúng không phải là cứu cánh hay mục tiêu tối hậu của việc hành thiền. Hành thiền Huệ hay thiền Minh Sát là nhằm mục đích giải thoát hay loại trừ phiền não tham, sân, si mà muốn loại trừ các phiền não này thì phải loại trừ nguyên nhân của chúng. Nguyên nhân của tham ái, chấp thủ, si mê là đánh giá sai lầm hay hiểu lầm giá trị của đối tượng mà ta đang tham ái, chấp giữ; cho rằng chúng thường còn, đáng yêu, thuộc quyền làm chủ của chúng ta, trong khi đó chúng là vô thường, khổ, và không làm chủ được. (Như Kinh Giới hạnh và kinh Hiểu Biết đã nói: Một vị tỳ khưu có giới hạnh và hiểu biết cần phải thận trọng chú tâm theo dõi quán sát năm uẩn thủ để thấy chúng là Vô thường, Khổ, Bệnh tật, Ung nhọt, Mũi nhọn, Khốn cùng, Đau xót, Nằm ngoài, Hủy hoại, Trống rỗng, và Vô ngã (không có cốt lõi) để đạt Đạo và Quả từ Tu Đà Hoàn đến A La Hán, giải thoát, Niết Bàn. Do đó, người hành thiền phải hướng tâm đến Giải thoát Niết Bàn hay hướng đến việc thấy rõ vô thường, khổ, vô ngã.
Sau khi thêm tư tưởng thứ tám vào bảy tư tưởng của Đại Đức Anuruddha, Đức Phật trở về chỗ ngụ của mình và giảng giải tám tư tưởng này cho các thầy tỳ khưu. Tám tư tưởng này được gọi là “Tám Điều Suy Tưởng của Bậc Đại Nhân”.
Đại Đức Anuruddha tiếp tục hành thiền theo lời hướng dẫn của Đức Phật, hướng tâm đến Niết Bàn, đến sự giải thoát, khởi đầu là hướng tâm đến sự vô thường, sinh diệt, không hướng tâm đến Tham, Tà Kiến, Mạn cũng không hướng tâm đến việc loại trừ Tham, Tà Kiến, Mạn. Chẳng bao lâu sau Đại Đức Anuruddha đắc quả A La Hán.
Các thiền sinh nên học hỏi và thực hành tám tư tưởng của bậc đại nhân này. Có nghĩa là thiền sinh phải:
1. Thiểu dục (ít tham muốn).
2. Tri túc (biết đủ), bằng lòng với những gì đã có và những gì đã nhận được.
3. Sống ẩn cư, cả tâm ẩn cư lẫn thân ẩn cư.
4. Tinh tấn.
5. Chánh niệm vào những gì đang khởi sinh trong giây phút hiện tại.
6. Định tâm.
7. Có Trí Tuệ, hiểu biết căn bản về luật nhân quả và nghiệp báo.
8. Hướng đến giải thoát, Niết Bàn, tức là hướng tâm vào sự vô thường, sự sinh diệt của các pháp; không thích thú trong Tham Ái, Tà Kiến và Mạn. Đó là không thích thú trong các việc bất thiện nhờ luôn luôn luôn hướng tâm vào sự vô thường của tất cả sự vật.
Những sự hướng dẫn thực hành này giúp cho việc hành thiền được mạnh mẽ, và tiến triển tốt đẹp. Khi sự tiến triển bị ngăn chận thì hãy nhớ rằng: Người có nhiều phiền não bất thiện không thấy được chính nó và cũng không thấy được đạo quả một cách rõ ràng.
Trong lúc hành thiền, có hai trường hợp hay hai pháp làm cản trở việc giác ngộ là: tự cao ngã mạn và thối chí ngã lòng. Nếu tự cao ngã mạn và thối chí ngã lòng xuất hiện thì hãy đến gặp một vị thầy đủ thẩm quyền để xin lời khuyên bảo của vị thầy như Đại Đức Anuruddha đã làm.
Cầu mong các bạn tinh tấn thực hành, thanh lọc tâm tốt đẹp, dẫn đến Niết Bàn.

(Trích “Hiểu Biết Trọn Vẹn”, Hòa Thượng Sīlānanda giảng, Sư Khánh Hỷ soạn dịch)

Saturday, April 25, 2015

Suy nghĩ về việc bỏ ăn tối



Chiều nay, tôi nghe bạn nói “ đúng là bỏ ăn tối sướng ghê” , và tôi chợt nhớ có mấy người hỏi tôi cách làm sao bỏ ăn tối, không biết vì bận hay vì thấy người hỏi chưa thành tâm mong muốn nên tôi chỉ cười và nói dễ lắm, bỏ được ngay ấy mà…Cũng lâu rồi…

Và h...ôm nay tôi viết, và hy vọng bài viết này sẽ giúp những người chưa bỏ được ăn tối sẽ bỏ được, và ai bỏ được thì có thêm thông tin để hướng dẫn người khác cũng bỏ được và được hưởng những lợi ích thiết thực của việc bỏ ăn tối…

Tại sao không nên ăn tối.

Tôi đã không hỏi câu hỏi này trước khi bỏ ăn tối, chỉ đơn giản xuất phát từ lòng tin vào Đức Phật mà tôi bỏ. Bỏ xong tôi mới nghiên cứu, hơi ngược nhưng dù sao thì cũng có thể trả lời thế này:
- Không ăn tối giúp chúng ta khỏe hơn.
- Không ăn tối giúp chúng ta đẹp hơn, không bị tích mỡ.
- Không ăn tối giúp chúng ta minh mẫn hơn.
- Không ăn tối giúp chúng ta hướng thượng hơn.
- Không ăn tối giúp chúng ta có nhiều thời gian hơn.
- Không ăn tối giúp chúng ta tiết kiệm được tiền bạc.
- Với người tu, không ăn tối là điều bắt buộc.

Đây là điều mà bao giờ tôi cũng bị phản đối khi người khác biết tôi không ăn tối.., ít nhất trong đầu mọi người thì tôi là người không bình thường. Bữa tối vốn là bữa ăn chính, là lúc mà cả gia đình quần tụ, cả ngày làm việc mệt mỏi, tối là lúc nạp năng lượng, thế mà không ăn thì lấy đâu ra năng lượng. Chưa kể tới chuyện, bỏ ăn tối thì nhà hàng, khách sạn, quán ăn “nó chết hết à”.

Thực ra, nếu phải trả lời cho câu hỏi “tại sao?” thì đa số những người đưa ra những ý trên sẽ nhanh chóng đi vào ngõ cụt. Ví dụ tại sao lại phải ăn tối, tại sao ăn tối lại mang lại năng lượng, tại sao ăn lại mang lại năng lượng, quá trình tiêu hóa, dị hóa thế nào để có năng lượng.. năng lượng nhận được và năng lượng mất đi để tiêu hóa thức ăn thế nào…
Ăn là cả một quá trình vô cùng phức tạp, từ việc nhai thức ăn đã được chế biến, việc tiết nước bọt để “tiền xử lý” thức ăn; việc nuốt và đưa thức ăn xuống dạ dầy; việc thức ăn đã được nhai nhỏ và thấm nước bọt được “ đốt” bằng axit trong dạ dầy và được nghiền, bóp; việc thức ăn được đẩy xuống tá tràng để được thấm mật , dịch tụy và các enzim (men) tiêu hóa khác rồi đẩy vào ruột non, tiếp tục được nghiền mịn bằng cơ chế tinh vi trong ruột; việc các chất bổ được chuyển qua các mao mạch vào máu, đẩy lên gan để tảy độc và về tim, từ đó theo động mạch đi nuôi cơ thể; việc chất bã được đẩy xuống ruột già rồi chuyển xuống tích lại thành phân, rồi đẩy ra ngoài…

Đây là cả một quá trình vô cùng phức tạp, và cơ thể rất cần có năng lượng để chuyển hóa thức ăn thô thành chất bổ dưỡng. Và không chỉ cần năng lượng, một loạt tuyến nội tiết được kích hoạt để thực hiện quá trình tiêu hóa và dị hóa, bắt đầu từ các tuyến gan, tụy, mật, thượng thận cho tới các tuyến cao cấp hơn như tuyến tùng rồi vùng dưới đồi. Cả một bộ máy khổng lồ được huy động để ăn. Rồi sao? Rõ ràng là bạn đã làm xong hết việc vào ban ngày rồi mà, tại sao không nạp trước và trong khi làm việc, trong ngày làm việc, mà làm xong rồi lại cần năng lượng?

Rồi chưa hết, đã mệt mà còn cần năng lượng để tiêu hóa, còn năng lượng làm ra thì lại chưa cần dùng tới. Rõ ràng tối nếu bạn nghỉ và ngủ, thì đâu cần nhiều năng lượng thế. Sáng mai mới cần, còn tối ngủ rồi đâu cần, không cần mà cứ ăn vào thì nó sẽ ra cái gì?

Đấy là chỗ cần phải bình tĩnh đặt câu hỏi tại sao?

Bất hợp lý thứ nhất là đang mệt mà lại làm mệt hơn vì phải ăn…
Bất hợp lý thứ hai là chưa cần năng lượng mà lại nạp…

Bạn sẽ nói là chưa cần thì mai cần… tôi sẽ nói là nếu mai cần thì sao không ăn vào buổi sáng ??? Bạn sẽ nói là sáng tôi bận , không ăn đủ… tôi sẽ hỏi là tại sao bạn lại bận..bạn sẽ nói là tôi muốn ngủ nhiều hơn… tôi sẽ hỏi tại sao bạn lại phải ngủ nhiều ??? Bạn sẽ trả lời là tôi phải ngủ đủ 8 tiếng.. và tôi sẽ hỏi là tại sao 8 tiếng mới là đủ mà không phải là 7 là 6 hay là 5? Câu trả lời của bạn là gì? Tôi chắc là bạn sẽ rất khó mà trả lời câu hỏi này…

Tại sao phải ngủ nhiều thế nhỉ , hay là …
Đúng, do ăn tối nên phải ngủ nhiều.

Do ăn tối nên cơ thể không thể đi vào trạng thái nghỉ ngơi và tập trung xử lý các phần việc mà chỉ có thể làm được khi cơ thể được ngủ. Do phải hoạt động, mà là một hoạt động nặng nhọc là tiêu hóa thức ăn thô, nên giấc ngủ không ngon, mà giấc ngủ không tốt, thể hiện qua mơ nhiều, ngủ dậy miệng đắng và mệt mỏi sẽ khiến giấc ngủ phải kéo dài thêm.

Do ăn tối nên phải ngủ nhiều hơn, tốn thời gian hơn và ngay bản thân giấc ngủ cũng không mang lại sự thoải mái mong muốn. Đó là chúng ta chưa bàn sâu về khía cạnh tinh thần của một giấc ngủ không chất lượng.

Không chỉ có thể, thức ăn được nạp vào buổi tối và chỉ được sử dụng vào ngày hôm sau, sẽ buộc phải dự trữ ở dạng mỡ… và bạn sẽ có một cái kho để chứa “nguyên liệu tinh” ở bụng, ở đùi… nôm na là bạn sẽ béo.. sẽ tăng cân. Và ăn tối càng muộn thì càng nhiều mỡ.

Trước khi đi vào phân tích tại sao không ăn tối khiến người ta thông minh hơn, chúng ta hãy thử nghiên cứu cơ chế này một chút.

Bạn có để ý là ăn no xong thường thấy mí mắt nặng xuống, đặc biệt là nếu không bận làm gì ngay, thì chúng ta rất dễ buồn ngủ. Tại sao vậy? Nếu để ý thêm chút nữa, thì ăn càng no, thì càng dễ buồn ngủ.

Cũng không phải khó hiểu lắm nếu chúng ta có ít kiến thức về nội tiết. Buồn ngủ là do do tuyến tùng, một tuyến nội tiết nằm trong đầu, tiết ra một loại hormone tên là melatonin, chất này sẽ tác động tới các tế bào đích trong não và cơ thể, khiến các tế bào này giảm khả năng hoạt động. Nôm na là ép các tế bào này nghỉ, để dồn năng lượng cho hệ thống tiêu hóa, vốn đang rất cần năng lượng để tiêu hóa thức ăn thô. Melatonine sẽ khiến chúng ta buồn ngủ, giảm trương lực cơ, mí mắt trùng xuống.

Khi buồn ngủ chúng ta có nghĩ được không, có minh mẫn không?

Nếu thường xuyên nhận một liều lượng chất an thần như vậy, liệu có thông minh không

Bạn ăn tối, sau khi ăn, bạn nhận được một liều melatonin, mà đúng ra không phải nhận… Vài tiếng sau, khi bạn đi ngủ, bạn sẽ nhận được thêm một liều melatonin nữa..

Lý do phải cho cơ thể “uống thuốc” an thần, là hệ thống vệ sinh nội tạng không thể hoạt động tốt, khi cơ thể còn hoạt động nặng nhọc như tiêu hóa thức ăn thô, hoặc phải suy nghĩ , làm việc trí óc. Như hệ thống vệ sinh công cộng chỉ có thể làm việc vào ban đêm , khi không có ai đi lại trên đường hoặc rất ít người đi lại trên đường. Chúng ta chỉ cần hình dung Hà Nội hoặc Sài Gòn một ngày mà không được dọn vệ sinh? Rất nhiều thông tin rác mà chúng ta tiếp nhận trong ngày, khi ngủ cơ thể cần phải xử lý, cái nào cho vào đâu, cái nào lưu trữ, cái nào bỏ… rất nhiều chất độc tiếp nhận trong ngày qua thức ăn, qua không khí cần được xử lý, thanh lọc ( tại sao nước tiểu vào buổi sáng bao giờ cũng có màu đậm và rất khai?) ..

Chúng ta đã hiểu phần nào giá trị của giấc ngủ .. vậy hãy làm sao để mình có một giấc ngủ tốt hơn. Và bỏ ăn tối là một giải pháp rất hiệu quả.

Nếu bạn còn lo không ăn tối sẽ thiếu năng lượng, thì hãy suy nghĩ thêm… thứ nhất, tôi bỏ cả ăn sáng lẫn ăn tối, tôi vẫn sống và làm việc bình thường, thậm chí còn nhiều hơn nhiều người. Và rất nhiều người bỏ ăn tối, họ vẫn khỏe mạnh, thanh thoát, nước da sáng và hoạt động cả thể lực và trí tuệ đều hiệu quả.

Thứ nhì, nhiều người đã bỏ ăn sáng, thay vào đó ăn tối rất no. Sao không đổi lại, ăn sáng cho đầy đủ và bỏ ăn tối. Cùng một số lượng thức ăn thô được nạp vào, thay vì tích mỡ khi ăn tối muộn, sẽ được sử dụng ngay nếu được ăn vào sáng sớm, khiến cơ thể làm việc được hiệu quả hơn. Hãy ăn sáng cho đủ, và bạn sẽ không thiếu năng lượng để làm việc và nghỉ ngơi.

Kết thúc phần này, nếu bạn có thể tự đặt câu hỏi “ Ăn để làm gì, ngủ để làm gì”, và nghĩ thật kỹ câu trả lời, tự mình trả lời chứ đừng trả lời kiểu “ vì sách họ viết là phải thế”. Chỉ cần nghĩ kỹ, thế là thành công lớn.

Tiếp theo , tôi sẽ giải thích thêm về cơ chế “đói”, để chúng ta có thể bỏ ăn tối mà không bị đói cồn ruột. Về năng lượng thì bạn có thể yên tâm rồi, vì chúng ta sẽ vẫn có đủ năng lượng, bằng cách sử dụng nhiên liệu vào đúng lúc cần, và tiêu thụ năng lượng ít đi. Cái vướng sẽ là cơn đói.

Tại sao người ta lại đói?

Cũng ít khi chúng ta tự hỏi mình câu hỏi đó, cứ thấy đói là ăn cho hết đói.

Bạn sẽ nghĩ là tôi đang làm phức tạp hóa vấn đề đơn giản, đó là đói thì ăn chứ sao. Không phải vậy, chính vì chúng ta bỏ qua ý nghĩa, nguyên nhân, mà chỉ lo giải quyết cái hiện tượng, nên vấn đề không được giải quyết. Ví như người bị bệnh đau đầu, chỉ lo uống Paracetamol để cắt cơn đau, mà không chịu tìm hiểu do đâu mà đầu nó phải đau, và trị ở gốc, cái nguyên nhân gây ra đau.

Đói, tôi thấy đói, đó là một cảm giác… Ban đầu nó là một cảm giác đúng, báo hiệu cơ thể cần được bổ sung thức ăn, làm nhiên liệu cho việc tái tạo ra năng lượng và dưỡng chất cho các hoạt động của nó. Ban đầu là như vậy, ở trẻ em là như vậy..

Cơ chế nó là: Tùy thuộc vào loại thức ăn , tính toán thời gian cần thiết để chuyển hóa thức ăn thô thành năng lượng.
Tùy vào nhu cầu năng lượng, tính toán thời điểm cần bắt đầu tiếp nhận thức ăn.

Khi có dấu hiệu bắt đầu tiếp nhận thức ăn, ví dụ như theo thói quen tới giờ ăn, như mắt thấy thức ăn đã được chuẩn bị, như mũi ngửi thấy mùi thức ăn được nấu chín, cơ thể bắt đầu tiết ra các hóa chất cần thiết. tuyến nước bọt được chuẩn bị; axit HCL trong dạ dầy bắt đầu tiết ra, tuyến mật và tuyến tụy bắt đầu hoạt động, tiết ra mật, ra các enzim cần thiết, bộ máy tiêu hóa được khởi động từ từ….

Và nếu được ăn vào lúc này, người ta sẽ không có cảm giác đói…

Và nếu không được ăn vào lúc này… khi bộ máy tiêu hóa đã được kích hoạt… thì cảm giác đói sẽ xuất hiện. Nó càng mãnh liệt khi bộ máy được kích hoạt mạnh, chứ nó không phụ thuộc vào việc có được ăn thật hay không. Đói chỉ là phản ứng của cơ thể khi bộ máy tiêu hóa đã được kích hoạt mà không nhận được thức ăn – một phản xạ có điều kiện.

Chúng ta chắc có nhiều kinh nghiệm về việc không ăn mà không thấy đói… hoặc chỉ nghĩ tới ăn mà thấy đói … hoặc cồn cào ruột gan vì phải chờ ăn…. Điều đó nói lên rằng đói chỉ là hiện tượng, không phải bản chất. Và không phải cứ đói là thiếu năng lượng, mặc dù thiếu năng lượng thì sẽ đói.

Đây là một điểm khá tế nhị, vì một người cố tình lờ cơn đói khi thiếu năng lượng, sẽ làm cơ thể kiệt quệ và sinh bệnh. Còn chúng ta sẽ cắt cơn đói khi đó là tín hiệu giả, là khi bộ máy tiêu hóa được khởi động do thói quen ăn tối hàng ngày. Đây là hai việc hoàn toàn khác nhau. Nhịn đói là phản khoa học. Chúng ta sẽ không nhịn đói, thay vào đó, chúng ta đang tìm hiểu cơ chế của việc ăn, tiêu hóa, và từ đó có cách ăn đúng, đúng thức ăn, đúng thời điểm.

Sau khi đã hiểu cơ chế tạo ra cảm giác đói, đã hiểu những hệ quả của việc ăn tối, chúng ta sẽ làm sao để không phải ăn tối mà không bị đói. Việc đó hoàn toàn không khó.

Chúng ta có cái đầu… Ý thức quyết định mọi thứ

Nếu ý quyết là không ăn, ý nhắc cơ thể là tối sẽ không ăn…sẽ từ bỏ việc ăn tối. Nhắc càng rõ ràng, càng quyết tâm, thì tới giờ ăn tối thường lệ, cơ thể sẽ ngưng, sẽ giảm việc khởi động bộ máy tiêu hóa…. Nhất là axit HCL, chất cần thiết để tiêu hóa thức ăn thô trong dạ dày sẽ ngưng, hoặc giảm tiết ra.

Ngày đầu, bộ máy đã quen chạy hàng chục năm sẽ khó mà tuân lệnh ngay. Nó sẽ vẫn vận hành, và chúng ta sẽ đói. Cách tốt nhất để hủy hoại dạ dày, làm thủng dạ dày là “lờ” cơn đói, dùng ý chí áp bức cơ thể. HCL không có thức ăn thô để tạo phản ứng hóa học, nó sẽ tác động mạnh tới lớp “đờm” bảo vệ thành trong của dạ dày, và làm lớp này mòn đi nhanh chóng… trong điều kiện thông thường, lớp này sẽ thay hoàn toàn sau mỗi ba ngày… còn trong điều kiện bị lờ như thế, tôi nghĩ chúng sẽ phải thay chỉ trong một tới hai ngày… Vì lý do nào đó mà chúng không kịp tái tạo? thế thì sẽ loét dạ dày…. Đó là còn nhẹ… Đó mới chỉ nói về dạ dầy…

Ngày đầu, nó sẽ vận hành, và nó sẽ đói… chúng ta sẽ làm gì? Chỉ uống nước, và uống nước sạch , nước trắng… nó vừa làm loãng axit, vừa làm đầy dạ dầy , làm giảm việc gửi tín hiệu đói do dạ dầy rỗng….

Ngày thứ hai, bộ máy tiêu hóa sẽ giảm hoạt động so với ngày đầu, nó đã biết là bạn nói là bạn làm, tín hiệu bạn gửi nó trưa hôm qua là đúng. Bạn đã nói là bỏ ăn tối, và quả thực là tới bữa tối, nó chẳng nhận được loại thức ăn nào ngoài nước trắng.

Ngày thứ ba, nó sẽ giảm nữa… vì nó thấy là thay vì thức ăn, nó vẫn chỉ nhận được nước, và để tiêu hóa nước, thì nó không cần phải khởi động bộ máy phức tạp như vậy. Nó bắt đầu tin bạn, nói cách khác, bạn bắt đầu hòa nhập được với cơ thể nhiều hơn.

Ngày thứ tư, nó sẽ hầu như không khởi động…

Vài ngày sau, bạn sẽ thấy cảm giác yên bình, sung sướng khôn tả của việc không ăn tối..
Đã thành công?

Không, chưa đâu, chúng ta còn phải ăn sáng cho tốt hơn để có năng lượng trong ngày lao động
Chúng ta phải tiết kiệm năng lượng trong sinh hoạt….

Đó là một vấn đề khác, tôi sẽ trình bày ở một lần nào đó, chỉ biết rằng, nếu làm được tốt, thì ăn một bữa là đủ. Các học trò của Đức Phật ngày xưa cũng chỉ ăn một bữa… và không ăn quá ngọ…” vị ấy chỉ ăn ngày một bữa, từ bỏ ăn phi thời, không ăn quá ngọ”

Chúng ta còn nhiều việc phải quan tâm, chưa biết cách bảo vệ cơ thể khỏi việc lãng phí năng lượng, thì việc chỉ bỏ ăn tối và ăn tốt hơn vào buổi sáng là hoàn toàn đủ….Hãy ăn ngày hai bữa sáng và trưa, đặc biệt để ý tới bữa sáng…

Tóm tắt lại thế này:
Bỏ được ăn tối thì sẽ khỏe và đầu óc minh mẫn hơn, bỏ được là tốt Muốn bỏ được thì ngoài quyết tâm, phải có hiểu biết Đừng sợ thiếu năng lượng Dùng nước sạch thay thức ăn vào bữa tối ở những ngày đầu Tác ý sau giờ ăn trưa, là tối sẽ không ăn. Điều này rất quan trọng, không tác ý trước thì sẽ rất đói. Thành công rồi thì đừng ăn lại…từ bỏ là như vậy, nếu ăn lại thì sẽ khó mà bắt cơ thể nghe theo. “Con người ta tồn tại được là nhờ thức ăn….”

Ngày 2/5/2011
Trương Hồng Hạnh

Nguồn trích dẫn: Facebook Hạnh Trương.

Tái Lập Ni Đoàn. Tại Sao Không?


Sống trên đời, với từ tâm, con người chúng ta có thể nâng đỡ, tha thứ cho nhau mọi lỗi lầm. Tuy nhiên, với quy luật nghiệp quả, rất đơn giản là thiện nghiệp thì cho quả lành, bất thiện nghiệp thì cho quả dữ. Như vậy, từ tâm cần phải được đi cùng với trí tuệ, để ta cùng dẫn dắt nhau gặt hái quả lành, chứ không phải cùng dắt díu nhau đi vào cõi dữ. Từ tâm đi cùng với sự bao che, bao biện các bất thiện nghiệp của nhau hóa ra bằng ngàn lần hại nhau. Do vậy, ta hãy cùng tìm hiểu sự thật về nghiệp quả của việc tái lập Ni đoàn.

Tăng Bảo bao gồm hội chúng Tỳ-kheo, hội chúng Tỳ-kheo-ni từ lúc Đức Phật chuyển pháp luân cho nhóm năm vị Koṇḍañña (Kiều-Trần-Như) đến lúc chấm dứt Giáo Pháp. Ngày nay, do vô thường mà hội chúng Tỳ-kheo-ni không còn nữa. Tứ chúng (Tăng, Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ) nay chỉ còn có ba (Tăng, Cận sự nam, Cận sự nữ) vì chư Tỳ-kheo-ni đã không thể duy trì hệ thống truyền thừa của mình theo các quy định của Đức Phật về phép xuất gia và thực hành giới Tỳ-kheo-ni.

Sự xuất hiện Ni đoàn trên thế gian không phải là một điều dễ dàng hay tất yếu. Bà nữ thánh Tu-đà-hoàn Mahāpajāpati Gotamī (Kiều-Đàm-Di, dì mẫu của Đức Thế Tôn) và sau đó là Đại Đức Ānanda đều đã 3 lần thỉnh cầu Đức Phật “người nữ có thể đạt được sự xuất gia rời nhà sống không nhà trong Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố” đều không thành tựu. Và Đại Đức Ānanda phải nghĩ “có lẽ ta nên cầu xin đức Thế Tôn việc người nữ rời nhà xuất gia sống không nhà trong Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố bằng một phương thức khác?”. Cuối cùng chính vì nguyên nhân người nữ có khả năng đắc thánh và vì công đức của dì mẫu Gotamī mà đức Phật quyết định thành lập Ni đoàn.

Cung kính tuân thủ tám Trọng Pháp trọn đời là điều kiện tiên quyết để Ni Đoàn xuất hiện trên thế gian. Vì tám Trọng Pháp liên hệ đến cả Pháp và Luật nên đã được kết tập đầy đủ và rõ ràng cả trong Tạng Kinh (Tăng Chi Bộ Kinh – Chương Tám Pháp – Kinh Mahāpajāpati Gotamī (AN 8.51)) lẫn Tạng Luật (Tiểu Phẩm – Chương Tỳ-kheo-ni). Trong đó, quy định quan trọng nhất liên quan đến sự truyền thừa của Tỳ-kheo-ni là phải xuất gia trước hai hội chúng, TăngNi.

Cô ni tu tập sự (sikkhamānā) đã thực hành sự học tập về sáu pháp trong hai năm nên tầm cầu sự tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng. Đây cũng là pháp cần được trọng vọng, cung kỉnh, tôn kính, cúng dường, và không được vi phạm cho đến trọn đời. (Tám Trọng Pháp - điều thứ 6)

Sự thành lập Ni đoàn đã được đức Phật tiến hành qua hai giai đoạn.

1. Bà Gotamī được tu lên bậc trên, T-kheo-ni, bằng cách thọ trì 8 Trọng Pháp của đức Thế tôn. Bà là Tỳ-kheo-ni đầu tiên xuất hiện trong giáo pháp của đức Thế tôn.

2. Sự xuất gia Tỳ-kheo-ni của 500 người nữ cư sĩ dòng họ Sakya trước Tăng chúng vì bà Gotamī không thể đại diện cho Ni chúng được.

Sau đó, đức Phật cũng hiện thực hóa sự xuất gia trước 2 hội chúng, học nữ trước Ni chúng và Tỳ-kheo-ni (người đã xuất gia thành tựu trước hội chúng Tỳ-kheo-ni) trước Tăng chúng bằng như quy định.

- Này các Tỳ khưu, ta cho phép các Tỳ khưu được ban phép tu lên bậc trên đến các Tỳ-khưu-ni. (Tạng Luật - Tiểu Phẩm - Chương Tỳ khưu Ni)

Bối cảnh mà đức Phật cho phép những người nữ dòng Sakya chỉ tu lên bậc trên trước Tăng chúng là sau 6 lần bác bỏ sự tồn tại của Ni đoàn trong Giáo Pháp của Ngài, đức Phật quyết định thành lập Ni đoàn và trên thế gian lúc đó có sự tồn tại của một vị tỳ-kheo-ni, đó là bà nữ Thánh Gotamī.

Và từ hơn 2000 năm nay, chúng ta chẳng còn có một vị Tỳ-kheo-ni nào cả. Bối cảnh đức Phật quyết định thành lập Ni đoàn này và bối cảnh các Tỳ-kheo tái lập Ni chúng sau khi Ni chúng được hình thành viên mãn và rồi vô thường, mất gốc thực sự là khác nhau hoàn toàn.

Nếu gượng ép tái lập Ni đoàn bằng cách cho người nữ xuất gia trực tiếp với chư Tỳ kheo Tăng như đức Phật đã chỉ định cho trường hợp người nữ dòng Sakya thì ta thiếu một Tỳ-kheo-ni tồn tại từ trước cũng như chư Tăng không phải là đức Phật để có thể tự mình ra quyết định này. Hơn nữa, các quy định về thông báo, đề nghị, tuyên ngôn Tăng sự bằng tiếng Pāḷi mà đức Phật đã quy định cho lần xuất gia 500 người nữ Sakya không hề được ghi chép lại trong tạng Luật. Nếu cho người nữ xuất gia trực tiếp, chư Tăng phải tự biên, tự diễn Tăng sự phi pháp, phi luật này. Và trong thực tế, đây lại là cách mà Ni đoàn được tái lập trong lần truyền giới thứ hai trở về sau. Tất nhiên, Tăng sự phi pháp, phi luật này không thể thành tựu.

[1340] Bốn loại hành sự: hành sự công bố, hành sự với lời thông báo, hành sự với lời thông báo đến lần thứ nhì, hành sự với lời thông báo đến lần thứ ba. Bốn loại hành sự này bị hư hỏng vì bao nhiêu nguyên nhân?
- Bốn loại hành sự này bị hư hỏng vì năm nguyên nhân: hoặc là vì sự việc, hoặc là vì lời đề nghị, hoặc là vì lời thông báo, hoặc là vì ranh giới (sīmā), hoặc là vì tập thể. (Vinaya Pitaka - Bộ Tập Yếu Parivāra - NĂM PHẦN)

Lại nữa, đức Phật đã có quy định rõ ràng rằng các Tỳ khưu được ban phép tu lên bậc trên đến các T-khưu-ni, những người đã thành tựu sự tu lên bậc trên trước Ni chúng, chứ không phải được ban phép tu lên bậc trên đến các nữ cư sĩ hay nữ đạo sĩ. Tỳ-kheo-ni và nữ cư sĩ, nữ đạo sĩ tất nhiên là những hạng người khác nhau hoàn toàn.

Nếu gượng ép tái lập Ni đoàn bằng cách cho xuất gia Tỳ-kheo-ni lần thứ nhất với Ni đoàn Đại Thừa, lần thứ hai với Tăng đoàn Theravāda thì lại vi phạm quy định ăn trộm Ni tướng và kẻ chuyển sang ngoại đạo. Và đây chính là cách mà Ni đoàn được thành lập trong lần truyền giới đầu tiên.

Này các Tỳ khưu, kẻ trộm tướng mạo (T-khưu) chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
Này các Tỳ khưu, kẻ đã chuyển sang ngoại đạo chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
Này các Tỳ khưu, kẻ làm chia rẽ hội chúng chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất. (Tạng Luật - Đại Phẩm - Chương Trọng Yếu (Mahākhandhakaṃ))

Để đảm bảo Tăng sự được thành tựu, Đạo Phật Nguyên Thủy luôn luôn chỉ dùng đúng Phật ngôn bằng tiếng Pāḷi. Vì tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều biến đổi theo thời gian, nếu Tăng sự được phép tiến hành bằng các loại tiếng bản địa thì Đức Phật sẽ chế định điều này và cũng sẽ xác định luôn bản dịch nội dung Tăng sự cho ngôn ngữ ấy. Tất nhiên điều này không bao giờ xảy ra. Chính vì các quy định, điều kiện, thủ tục, trình tự cụ thể cho các loại Tăng sự, đặc biệt là các tuyên ngôn, đề nghị, thông báo của Tăng sự được Đức Phật dạy bằng tiếng Pāḷi đã khiến Đại Thừa trở thành một tôn giáo mới. Cụ thể hơn, vì giới bổn Pātimokkha, nghi thức Tăng sự, hình thức y phục, phương cách nuôi mạng, giáo lý, con đường tu tập và mục đích chứng ngộ tối hậu của Nguyên Thủy khác biệt với Đại Thừa nên Đại Thừa là ngoại đạo của Nguyên Thủy và Nguyên Thủy là ngoại đạo của Đại Thừa. Bộ y thật sự là biểu tượng của đạo giáo, được bậc Đạo sư quy định bằng nhiều điều luật khác nhau, mà bị biến hoại thì có giáo lý nào còn được nguyên vẹn? Ta hãy thử hình dung hình ảnh bộ đội VN mặc quân phục của TQ thì sẽ hiểu rõ vai trò của bộ y. Ta hãy nhìn bộ y mà đức Phật đắp thì mới hiểu được mức độ hòa trộn của tín ngưỡng dân gian vào trong Đại Thừa.

Lại nữa, mãi cho đến hạ thứ năm, sau sáu lần bác bỏ sự ra đời của Ni đoàn, chỉ nhờ vào lời thỉnh cầu của ngài Ānanda với các yếu tố về người nữ có thể đắc thánh và về công đức của bà dì mẫu là nữ thánh Nhập lưu Gotamī mà Đức Phật mới quyết định thành lập Ni đoàn. Vì vậy có thể nói rằng sự tồn tại của Ni đoàn trong Tăng bảo không phải là một điều bắt buộc phải có, không có không được, nó chỉ là thứ yếu mà thôi. Do vậy, không có lý do nào khiến Đức Phật phải dự trù tình huống phải làm mọi giá để nó được sống lại trong tương lai sau khi nó vô thường một cách tự nhiên đúng theo cách của thời suy giảm với thiện pháp.

Này Ānanda, nếu nữ nhân không đạt được sự xuất gia rời nhà sống không nhà trong Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố, này Ānanda, Phạm hạnh có thể sẽ được tồn tại lâu dài, Diệu Pháp (saddhamma) có thể tồn tại một ngàn năm.
Này Ānanda, bởi vì nữ nhân đã xuất gia rời nhà sống không nhà trong Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố, này Ānanda, giờ đây Phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu dài, này Ānanda, giờ đây Diệu Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm. (Tạng Luật - Tiểu Phẩm - Chương Tỳ Khưu Ni)

Ở đây, Diệu Pháp chính là sự hiện hữu toàn vẹn của pháp học, pháp hành, pháp thành với đầy đủ lục thông và bốn tuệ phân tích.

Như vậy thì hà cớ gì trong thời chúng sanh suy giảm đối với thiện pháp, không còn bà Gotamī nữa, không còn sự tồn tại của Ni đoàn chánh truyền, không có ai trong số ứng viên Tỳ-kheo-ni là người nữ dòng Sakya hay thánh nhân gì cả, năng lực đắc thánh thì không thể bằng thời Đức Phật nhưng trí tuệ tham, sân, si nhào nặn giới luật, làm rối ren Giáo Pháp thì vượt trội, thế thì việc gì phải dựng đứng lại cái đã làm suy giảm tuổi thọ của Diệu Pháp? Để Giáo Pháp diệt vong sớm hơn chăng?

Trong thực tế, với những ai muốn “tái lập” Ni đoàn Nguyên Thủy, họ cần phải bác bỏ không phải chỉ tám Trọng Pháp mà còn cần phải biên soạn lại các điều học liên quan đến sự tu lên bậc trên của người nữ. Trước tiên, họ cần phải xoá các quy định về Tăng sự hư hỏng, Ni sư tế độ là ngoại đạo, hội chúng Ni là ngoại đạo, tu lên bậc trên trước 2 hội chúng (chân chánh), điều pārājika (trục xuất) thứ bảy (xu hướng theo kẻ bị phạt án treo). Bên cạnh đó, họ phải quy định lại vấn đề về cô ni tu tập sự (học nữ) phải thực hành viên mãn 6 pháp trong suốt 2 năm, “Ni sư Nguyên Thủy” không cần đủ 12 năm thâm niên (hạ - vassa), “Ni sư Nguyên Thủy” có thể tiếp độ hàng năm và tiếp độ hơn 1 tân “Tỳ-kheo-ni” mỗi năm để có thể gia Tăng dân số nhanh chóng.

Sự thực, chối bỏ tám Trọng Pháp (là “pháp cần được trọng vọng, cung kỉnh, tôn kính, cúng dường, và không được vi phạm cho đến trọn đời”) có nghĩa là chối bỏ Bậc Đạo Sư:

“Này Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo Sư của các Ngươi.” (Kinh Trường Bộ - Kinh Ðại Bát-Niết-Bàn)

Đức Thế Tôn cũng như tất cả các chúng sanh không ai ép người nữ xuất gia trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn. Tuy nhiên, để trở thành một Tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn thì cần phải tuân thủ các điều luật về sự xuất gia, về sự sinh hoạt và tu học.

Không thành tựu phép xuất gia theo Giới Luật của Đức Phật nhưng vẫn sinh sống bằng danh xưng, bằng bộ y “Tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini” nên đó là sự lừa đảo, tà mạng.
Tự biên, tự diễn, tự nhào nặn các luật lệ riêng cho mình rồi tự xưng là Tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini thì đó chính là kẻ ăn cắp Ni tướng.

“Và này các Tỷ-kheo, thế nào là tà mạng? Lừa đảo, nói lời mê ly, hiện tướng, gian trá, lấy lợi cầu lợi; như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà mạng.” (Trung Bộ Kinh - Đại Kinh Bốn Mươi (MN117))

Thực ra, nhờ có nhóm các Tỳ-kheo chia rẽ khỏi Theravāda làm hội chúng Tỳ-kheo Nguyên Thủy mà các “Tỳ-kheo-ni” Nguyên Thủy thời hiện đại mới “thành tựu” sự tu lên bậc trên.

“Bạch ngài, có điều nói rằng: ‘Sự chia rẽ hội chúng, sự chia rẽ hội chúng.’ Bạch ngài, cho đến như thế nào thì hội chúng bị chia rẽ?”
- “Ở đây, này Upāli, các Tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là ‘Pháp;’
tuyên bố Pháp là: ‘Phi Pháp;’
tuyên bố phi Luật là: ‘Luật;’
tuyên bố Luật là: ‘Phi Luật;’
tuyên bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;’
tuyên bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai;’
tuyên bố điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã được thực hành bởi đức Như Lai;’
tuyên bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai;’
tuyên bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã được quy định bởi đức Như Lai;’
tuyên bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã không được quy định bởi đức Như Lai;’
tuyên bố vô tội là: ‘Phạm tội;’
tuyên bố phạm tội là: ‘Vô tội;’
tuyên bố tội nhẹ là: ‘Tội nặng;’
tuyên bố tội nặng là: ‘Tội nhẹ;’
tuyên bố tội còn dư sót là: ‘Tội không còn dư sót;’
tuyên bố tội không còn dư sót là: ‘Tội còn dư sót;’
tuyên bố tội xấu xa là: ‘Tội không xấu xa;’
tuyên bố tội không xấu xa là: ‘Tội xấu xa.’
Do mười tám sự việc này, các vị ấy tách ra và tách rời hẳn, chúng thực hiện lễ Uposatha riêng rẽ, chúng thực hiện lễ Pavāraṇa riêng rẽ, chúng thực hiện hành sự của hội chúng riêng rẽ. Này Upāli, cho đến như vậy thì hội chúng bị chia rẽ. (Tạng Luật - Tiểu Phẩm - Chương Chia Rẽ Hội Chúng)

Như vậy, những tỳ-kheo đã cho tu lên bậc trên những nữ đạo sĩ, nữ cư sĩ và những kẻ đã chuyển sang ngoại đạo trộm tướng mạo (T-khưu-ni), đã làm viên mãn nghiệp chia rẽ Tăng bằng hành sự riêng rẽ phi pháp. Cộng nghiệp với những kẻ đó là những ai tùy hỷ với hành sự ấy.

Thế Nào Là Mục Đích Xuất Gia Trong Giáo Pháp Của Đức Thế Tôn?

Để thành tựu Tỳ-kheo-ni thì cần hội đủ các tiêu chuẩn về nội thân và lễ xuất gia thành tựu. Để thành tựu mục đích tột cùng là sự giải thoát (cho cả tại gia lẫn xuất gia) thì cần phải tu tập miên mật nghiêm túc Giới, Định, Tuệ. Bằng cách xem thường Phật, Pháp, Tăng, phớt lờ Giới luật chỉ để nhằm thỏa mãn danh xưng, bản ngã rằng ta đây cũng thực hành Giới hạnh, Phạm hạnh, các Tỳ-kheo-ni, sadini tân thời đã trở thành những kẻ ngoại đạo tà mạng, những đứa con phi pháp, vô thừa nhận.

Sự giải thoát, chấm dứt khổ sanh tử luân hồi không phải là độc quyền của người xuất gia trong Giáo Pháp của Đấng Chiến Thắng. Trong thời Đức Phật, có hàng triệu vị cận sự nam, cận sự nữ cư sĩ tại gia là các bậc thánh Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai. Như vậy, danh xưng tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini không giúp được gì cho mục đích giải thoát khỏi sanh tử luân hồi mà chính sự thực hành viên mãn tam học Giới, Định, Tuệ sẽ giúp người tại gia hay xuất gia thành tựu mục đích này.

Với người ác giới, này các Tỷ-kheo, với người phá giới, chánh định do vậy bị phá hoại. Khi chánh định không có mặt, với người chánh định bị phá hoại, như thật tri kiến do vậy bị phá hoại. Khi như thật tri kiến không có mặt, với người như thật tri kiến bị phá hoại, nhàm chán, ly tham do vậy bị phá hoại. Khi nhàm chán ly tham không có mặt, với người nhàm chán ly tham bị phá hoại, giải thoát tri kiến do vậy bị phá hoại.
Với người có giới, này các Tỷ-kheo, với người gìn giữ giới, chánh định do vậy được đầy đủ. Do chánh định có mặt, với người chánh định được thành tựu, như thật tri kiến do vậy được thành tựu. Do như thật tri kiến có mặt, với người như thật tri kiến có mặt, nhàm chán, ly tham do vậy được thành tựu. Do nhàm chán, ly tham có mặt, với người nhàm chán ly tham được thành tựu, giải thoát tri kiến do vậy được thành tựu. (Tăng Chi Bộ - Chương V - Kinh Ác Giới)

Tuy nhiên, vì lòng tham với danh xưng nên bằng nỗ lực (tà tinh tấn) của cái tâm làm nô lệ cho các phiền não tham, sân, si, các tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini tân thời đã chối bỏ bậc Đạo sư, chà đạp giới luật, ăn cắp Ni tướng, sinh sống tà mạng, họ đã tự mình chặt đứt con đường giải thoát của chính mình.

Vì bản chất của sự việc phi pháp này đã chỉ ra một con đường duy nhất dành cho những ai tham gia và ủng hộ nó là cõi dữ nên không thể có một sự biện hộ chân chánh nào có thể dành cho họ để có thể nói rằng vì muốn phát triển giáo pháp, vì muốn gầy dựng lại truyền thống tốt đẹp của Đạo Phật, vì muốn được giải thoát, họ buộc phải tái lập lại Ni đoàn. Nếu không thể biện hộ được những điều đó thì sự đấu tranh cho danh xưng “Tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini có ý nghĩa gì ngoài mục đích khoác lác, lừa đảo và kiếm ăn tà mạng?

Một kẻ sống dối trá, ăn cắp Ni tướng, trộm cắp miếng cơm của đàn na tín thí thì sao có thể có tư cách truyền tam quy, ngũ giới cho một người cư sĩ sống chân chánh? Một người có 3 giới có tư cách truyền 5 giới cho người khác được chăng? Họ có xứng đáng để người Phật tử đứng chắp tay hay không chứ đừng nói gì đến việc truyền giới.

Con người rồi ai cũng phải chết. Vấn đề mà chúng ta cần phải biết là vì nguyên nhân nào mà sau cái chết chúng ta sẽ đi lên cõi lành hay đi xuống cõi dữ. Và đức Phật đã chỉ rõ bằng cách nào, bằng nguyên nhân nào mà ta đi xuống cõi dữ.

Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh, đáng nghi ngờ những hành vi che đậy, không phải Sa-môn, nhưng tự nhận là Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng tự nhận sống Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với các kềm sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và nhét vào miệng một hòn sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Hòn sắt ấy đốt cháy môi của người ấy, đốt cháy miệng, đốt cháy lưỡi, đốt cháy cổ họng, đốt cháy bụng đem theo ruột non, ruột già và thoát ra ngoài từ phần ở dưới. Vì cớ sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ gần như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh... tánh tình bất tịnh, hưởng thọ các đồ ăn khất thực do các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, do các gia chủ đại phú, vì lòng tin cúng dường; Như vậy, này các Tỷ-kheo, khiến cho vị ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. (Tăng Chi Bộ - Chương Bảy Pháp - Kinh Lửa)

Ở đây, ta có thể thấy được sự khác biệt giữa người tu nữ giữ10 giới chân chánh và người sadini, tỳ-kheo-ni sống tà mạng, hạ đẳng là một đằng đi lên thiện giới, Niết bàn, một đằng đi xuống cõi dữ. Chúng ta cũng nên thương xót cho những chiến binh của Ma Vương phiền não, những kẻ đang hết lòng hy sinh kiếp người khó có được này để giành cho bằng được tấm vé định cư nơi khổ cảnh, những kẻ đang hết lòng hại mình, hại người, hại Giáo Pháp.

Chùa chiền của Tam bảo nhất định không thể là nơi nuôi dưỡng các ung nhọt của Giáo Pháp ngang nhiên tồn tại trong nội thân mình. Dù các ung nhọt ấy còn nhỏ và ít, nhưng rồi chúng sẽ sớm làm bại hoại Giáo Pháp vì cái sảy nó nảy cái ung. Vì bản chất của sự thọ trì chỉ có 3 giới, chúng sẽ làm mất lòng tin ở nơi những người có ít lòng tin nơi Tam bảo, làm các Phật tử có trí khởi sanh lòng thương hại vì sự thiếu trí và cả sự khinh bỉ vì sự tà mạng, hạ đẳng của chúng. Chúng thực sự là những kẻ nội xâm trong Giáo Pháp của đức Phật.

Theo quy luật của nghiệp, đã cúng dường đúng pháp là có phước, nhưng vấn đề là phước ấy như thế nào?

Tại đây, này Ananda, sau khi bố thí cho các loại bàng sanh, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm phần công đức.
Sau khi bố thí cho những phàm phu theo ác giới, cúng dường này có hy vọng đem lại ngàn phần công đức.
Sau khi bố thí cho các phàm phu gìn giữ giới luật, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn lần công đức.
Sau khi bố thí cho các người ngoại học đã ly tham trong các dục vọng, cúng dường này có hy vọng đem lại trăm ngàn ức lần công đức. (Trung Bộ Kinh - Kinh Phân biệt cúng dường)

Như vậy, ta có thể thấy rằng bố thí cho những kẻ tà mạng sẽ có phước báu lớn hơn bố thí cho súc vật và nhỏ hơn so với cúng dường người Phật tử đang thọ trì 5 giới hay những vị chứng đắc thiền định, đoạn trừ 5 triền cái (dục ái, sân, hôn trầm - thụy miên, trạo cử - hối quá và hoài nghi).

Ví như một người có trí khi buộc phải chọn lựa giữa thân thể và tài sản thì họ sẽ chọn thân thể, khi buộc phải chọn giữa tính mạng và thân thể thì họ sẽ chọn tính mạng. Cũng vậy, một người có trí sẽ từ bỏ bàn tay lỡ nhúng chàm và chọn lấy con đường thiện giới cõi đời này và họ cũng biết rằng không ai có thể làm thay đổi được quá khứ.

Sống trên cõi đời này, có ai dám tự xưng rằng mình chưa bao giờ phạm sai lầm? Nhưng có phải vì ta lỡ phạm sai lầm, vì sĩ diện tự ái, ta quyết định sẽ không quay đầu và chọn mất mạng, sống lâu dài, thường trú trong cõi dữ? Những ai còn có chút ít lý trí nhất định sẽ sám hối với Tam Bảo vì sự vô minh của mình và quay về hộ trì Chánh Pháp. Con người chân chánh chỉ đánh kẻ chạy đi chứ không ai đánh kẻ chạy lại”, đơn giản là vì họ tôn trọng những kẻ có bản lãnh, có trí và biết sống có lý trí.

Bộ y của người tu nữ rất đẹp và cao thượng. Nhưng bộ y có được không đúng giới luật thì chỉ đem lại khổ đau cho người chủ nhân của nó cũng như cho Chánh Pháp mà thôi.

Đặc biệt, trong giai đoạn gần đây, có nhiều tu nữ hay nữ cư sĩ, do không thân cận các bậc thiện trí thức, thiếu hiểu biết kinh điển nên đã làm vỡ phép Tam Quy bằng việc bác bỏ tám Trọng Pháp, ủng hộ và xuất gia sadini hay Tỳ-kheo-ni. Tuy vậy, chúng ta vẫn luôn mong chờ họ quay lại vì chúng ta luôn mong họ có được phước báu xuất gia cũng như mong Chánh Pháp mãi trường tồn.

- Người ngu biết mình ngu,
Nhờ vậy thành có trí.
Người ngu cho mình trí,
Thật xứng gọi chí ngu. (PC 63)

- Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ lỗi và khiển trách,
Như chỉ chỗ chôn vàng
Hãy thân cận người trí!
Thân cận người như vậy,
Chỉ tốt hơn, không xấu. (PC 76)

- Những người hay khuyên bảo,
Ngăn người khác làm ác,
Ðược người hiền kính yêu,
Bị người ác không thích. (PC 77)

- Chớ thân với bạn ác,
Chớ thân kẻ tiểu nhân.
Hãy thân người bạn lành,
Hãy thân bậc thượng nhân. (PC 78)

- Người ác thấy là hiền.
Khi ác chưa chín muồi,
Khi ác nghiệp chín muồi,
Người ác mới thấy ác. (PC 119)

- Người hiền thấy là ác,
Khi thiện chưa chín muồi.
Khi thiện được chín muồi,
Người hiền thấy là thiện. (PC 120)

- Cả hai pháp, phi pháp,
Kết quả không giống nhau;
Phi pháp, dẫn địa ngục,
Pháp đưa đến cõi lành. (Dhammika (Thera. 35))

- Dễ làm các điều ác,
Dễ làm tự hại mình.
Còn việc lành, việc tốt,
Thật tối thượng khó làm. (PC 163)

Trích từ FB Chánh Pháp