Monday, May 4, 2020

Cách Niệm Ân Đức Phật - Tùy Niệm Phật - Buddhānussati


Buddhānussati hay tùy niệm Phật là pháp tùy niệm đầu tiên trong mười đề mục tùy niệm (Anussati). Nó là sự niệm tưởng đi niệm tưởng lại nhiều lần những ân đức của Phật.
Việc tu tập Niệm Ân Đức Phật này chỉ thành công nơi người có niềm tin tuyệt đối (aveccappasāda), chứ không nơi người khác. Niềm tin tuyệt đối là một trong ba yếu tố đầu của bậc Thánh nhập lưu (S.v. 196). Đó là niềm tin bất động đi kèm với tâm trong sáng do sự hiểu biết đúng về Thánh Đạo tạo ra. Niềm tin này không bị gió tà kiến làm cho lay chuyển. Tuy nhiên, niềm tin giống như niềm tin Thánh Đạo này (Ariya-magga saddhā) cũng có thể được xem như niềm tin tuyệt đối.
Ở đây người hành thiền với niềm tin tuyệt đối muốn thực hành Tùy Niệm Phật nên đi vào độc cư trong một trú xứ thuận lợi và hồi tưởng lại những ân đức đặc biệt của Đấng Giác Ngộ như sau:
“Itipiso Bhagavā
- Arahaṁ
- Sammāsambuddho
- Vijjācaranasampanno
- Sugato
- Lokavidū
- Anuttaropurisadammasarathi
- Satthā devamanussanaṁ
- Buddho
- Bhagavā”
Hành giả nên hồi tưởng đi hồi tưởng lại nhiều lần với sự hiểu biết đúng về các ân đức như sau:
1 - So Bhagavā itipi Arahaṁ
Đức Thế Tôn được gọi là Arahaṁ (Bậc Ứng Cúng) bởi vì ngài đã diệt tận mọi phiền não và và trở thành bậc thánh xứng đáng được các hàng chư thiên, phạm thiên và loài người cung kính.
2 - So Bhagavā itipi Sammāsambuddho
Đức Thế Tôn được gọi là Sammāsambuddho (Chánh Biến Tri) bởi vì ngài đã tự mình giác tri đầy đủ những pháp cần phái được giác tri.
3 - So Bhagavā itipi Vijjācaraṇasampanno
Đức Thế Tôn được gọi là Vijjācaraṇasampanno (Minh Hạnh Túc) bởi vì ngài có đầy đủ trí tuệ và đức hạnh tối thượng.
4 - So Bhagavā itipi Sugato
Đức Thế Tôn được gọi là Sugato (Thiện Thệ) bởi vì ngài đã ngự đến nơi ưu việt (tức Niết Bàn) và bởi vì ngài chỉ nói những lời chân thực và lợi ích.
5 - So Bhagavā itipi Lokavidū
Đức Thế Tôn được gọi là Lokavidū (Thế Gian Giải) bởi vì ngài hiểu biết rõ tam giới : chúng sanh thế giới (satta-loka), hữu vi thế giới (saṅkhāraloka) và không gian thế giới (okāsa-loka)
6 - So Bhagavā itipi Anuttaropurisadammasārathi
Đức Thế Tôn được gọi là Anuttaropurisadammasārathi (Vô Thượng Sĩ Điều Ngự Trượng Phu) bởi vì ngài điều ngự (thuần phục) được những người đáng được điều ngự không ai sánh bằng.
7 - So Bhagavā itipi Satthā devamanussānaṁ
Đức Thế Tôn được gọi là Satthā devamanussānaṁ (Thiên Nhân sư) bởi vì ngài là bậc đạo sư của chư thiên (devas và brahmas) và con người.
8 - So Bhagavā itipi Buddho
Đức Thế Tôn dược gọi là Buddho (Phật) bởi vì ngài đã tự mình giác ngộ và có thể khai sáng cho người khác hiểu rõ Tứ Thánh Đế và trở thành các bậc thánh nhân (Ariyas).
9 - So Bhagavā itipi Bhagavā
Đức Thế Tôn được gọi là Bhagavā (Thế Tôn) bởi vì ngài là Đấng Tối Thượng và Phúc Đức nhất. Ngài có đầy đủ những đức đặc biệt như sáu loại vinh quang — Issariya (Tự Tại), Dhamma (Pháp), Yasa (Danh Xưng), Sīrī (Cát Tường), Kama (Phương Pháp), Payatta (Nỗ Lực).
Issariya (Tự Tại)— khả năng kiểm soát tâm mình một cách thiện xảo theo ý muốn (tự tại).
Dhamma (Pháp)— khả năng chứng đắc bốn Đạo Trí (magga ñāṇa), bốn Quả Trí (phala ñāṇa) và Niết Bàn (nibbāna), còn gọi là chín pháp siêu thế (Lokuttara dhammas) rất thiện xảo .
Yasa (Danh Xưng) — khả năng làm cho danh tiếng thực sự được lan truyền khắp muôn phương trên toàn cõi nhân giới, thiên giới và phạm thiên giới.
Sīri (Cát Tường)— khả năng để có được một thân hình cân đối và nở nang hoàn chỉnh với diện mạo đáng yêu, đoan trang, và siêu phàm, gồm ba mươi hai hảo tướng và tám mươi vẻ đẹp phụ trên con người của Đức Phật.
Kāma (Ước Muốn)— khả năng thực hiện các năng lực thần thông ngay tức thì theo ý muốn.
Payatta (Nỗ Lực) —nỗ lực tối thượng giúp một người đạt đến tột đỉnh.
Khi người hành thiền niệm tưởng đi niệm tưởng lại nhiều lần các ân đức của Phật như trên, tâm vị ấy sẽ không còn bị ám ảnh bởi tham, sân hoặc si, mà nó hoàn toàn chính trực với các ân đức của Phật như đối tượng của nó.
Khi tâm người hành thiền không còn bị tham, sân và si ám ảnh, vị ấy đè nén được tất cả năm triền cái, và tâm vị ấy hướng về đề mục thiền với sự chính trực. Lúc đó tầm (vitakka) và tứ (vicāra) xuất hiện với sự khuynh hướng về các đức đặc biệt của Phật. Bằng cách suy tưởng trên các ân đức của Phật, người hành thiền tiếp tục vận dụng tầm và tứ, và không bao lâu hỷ (pīti) sẽ sanh khởi trong vị ấy.
Với tâm tràn đầy hân hoan, và với hỷ như nhân gần, những trạo cử của thân và tâm được lắng dịu bằng tịnh (passaddhi). Khi các trạo cử đã được lắng dịu, lạc (sukha) cả ở thân và tâm sanh khởi. Khi có lạc, tâm vị ấy trở nên định tĩnh với các ân đức của Phật như đối tượng của nó. Và vì thế, cuối cùng các thiền chi sanh khởi trong một sát-na duy nhất.
Tuy nhiên, vì các ân đức của Phật vô cùng thâm sâu, và do người hành thiền phải dành hết thời gian để niệm tưởng nhiều loại ân đức Phật, nên thiền chỉ có thể đạt đến cận định chứ không an chỉ. Nói cách khác, cận định (upacāra-samādhi) là định cao nhất người ta có thể đạt đến khi hành pháp Tùy Niệm Phật. Và cận định này tự nó cũng được gọi là ‘Tùy Niệm Phật’, vì nó sanh cùng với sự niệm tưởng các đức đặc biệt của Phật kể như phương tiện vậy.
• Cách Tu Tập ‘Buddhānussati’ Nhanh Chóng
Đối với một người đã đắc tứ thiền do nhờ hành Hơi Thở hay Kasiṇa trắng, trước tiên vị ấy nên hành để đắc tứ thiền có ánh sáng rất rực rỡ và thể nhập đi kèm. Với sự trợ giúp của ánh sáng này vị ấy hồi tưởng hay mường tượng một hình tượng Phật mà vị ấy kính ngưỡng. Khi vị ấy thấy bức tượng Phật rõ ràng trong ánh sáng, vị ấy nên đảnh lễ bức tượng ấy, xem đó như một vị Phật thực hiện tiền. Nếu vị ấy đã từng thấy một vị Phật thực trong một kiếp quá khứ nào đó, hình ảnh của Đức Phật đó có thể xuất hiện trong thị lực của vị ấy.
Sau đó vị ấy nên chuyển sự chú ý từ hình ảnh Phật sang ân đức Phật và niệm tưởng ân đức ấy nhiều lần. Nếu hình ảnh của Đức Phật không xuất hiện, vị ấy nên xem bức tượng Phật xuất hiện trong ánh sáng thiền định của vị ấy như Đức Phật thực và niệm tưởng trên ân đức Phật nhiều lần.
Người hành thiền nên niệm tưởng cả chín ân đức Phật theo tuần tự từng ân đức một, và rồi chọn một ân đức nào mà mình thích nhất và niệm đi niệm tưởng lại ân đức ấy nhiều lần— chẳng hạn, ‘Arahaṁ, Arahaṁ’. Khi định của vị ấy tăng trưởng sức mạnh, hình ảnh Phật sẽ biến mất trong khi tâm vị ấy vẫn tập trung trên ân đức đặc biệt vị ấy đang niệm. Nếu sự việc diễn ra như vậy, vị ấy không nên cố gắng nhớ lại hay tìm kiếm hình ảnh Đức Phật; mà chỉ nên tập trung tâm mình trên ân đức Phật là đủ.
Với sự trợ giúp mạnh mẽ của định thuộc tứ thiền, không bao lâu vị ấy sẽ đạt đến cận định trong Tùy Niệm Phật. Khi tâm vẫn tập trung một cách an tịnh trên ân đức Phật trong một giờ hoặc hơn không có bất kỳ sự phóng tâm nào, vị ấy nên khởi quán các thiền chi. Vị ấy sẽ nhận ra rằng mình đã đạt đến cận định vì lúc này vị ấy có thể thấy các thiền chi đã được khéo phát triển vậy.
Sau đó vị ấy nên niệm tưởng các ân đức Phật còn lại theo tuần từ từng ân đức một cho đến khi đạt đến cận định cho mỗi ân đức. Vị ấy cũng nên hành pháp thuần thục đối với cận định này.
• Những Lợi Ích Của Tùy Niệm Phật (Buddhānussati)
Một người hành thiền đã đắc cận định trong pháp tùy niệm ân đức Phật sẽ có được những lợi ích sau:
1- Vị ấy tôn kính Đức Phật, bậc Đạo Sư, với lòng tôn kính vĩ đại.
2 - Vị ấy đạt đến niềm tin đầy đủ nơi Đức Phật.
3 - Vị ấy có được chánh niệm tốt.
4 - Vị ấy phát triển được trí tuệ và sự hiểu biết.
5 - Vị ấy có được nhiều phước báu.
6 - Vị ấy được nhiều hỷ lạc.
7 - Vị ấy vượt qua được sự sợ hãi và khiếp đảm.
8 - Vị ấy có khả năng chịu đựng được khổ đau.
9 - Vị ấy cảm thấy như thể mình đang sống trong sự hiện diện của bậc Đạo Sư.
10 - Thân vị ấy, được những ân đức Phật thấm nhuần và cư trú, trở nên xứng đáng với sự tôn trọng như một tháp thờ xá-lợi.
11 - Tâm vị ấy khuynh hướng về Phật giới.
12 - Khi gặp phải cơ hội có thể phạm vào một ác nghiệp, vị ấy cảm thấy hổ thẹn (tàm) và sợ (quý) phạm vào ác nghiệp ấy như thể đang đứng trước mặt bậc Đạo Sư.
13 - Ngay cả nếu không đắc một đạo quả nào trong kiếp sống này, ít nhất vị ấy cũng hướng đến một sanh thú an vui.

--- Trích từ: Thiền Định (Samadhi). TK Pháp Thông dịch.

Saturday, February 29, 2020

KHỔ DO AI LÀM?


-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do tự mình làm ra?
-- Không phải vậy, này Kassapa.Thế Tôn đáp.
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do người khác làm ra?
-- Không phải vậy, này Kassapa. Thế Tôn đáp.
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ do mình làm ra và do người khác làm ra?
-- Không phải vậy, này Kassapa. Thế Tôn đáp.
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra, không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?
-- Không phải vậy, này Kassapa. Thế Tôn đáp.
-- Thưa Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?
-- Này Kassapa, không phải khổ không có. Khổ có, này Kassapa.
-- Như vậy, Tôn giả Gotama không biết, không thấy khổ.
-- Này Kassapa, không phải Ta không biết, không thấy khổ. Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ.
-- Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải tự mình làm ra", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải do người khác làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, khổ có phải do tự mình làm ra và do người khác làm ra?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, có phải khổ không do tự mình làm ra và không do người khác làm ra, khổ do tự nhiên sanh?", Ngài trả lời: "Không phải vậy, này Kassapa". Ðược hỏi: "Tôn giả Gotama, có phải khổ không có?", Ngài trả lời: "Không phải khổ không có. Khổ có, này Kassapa". Ðược hỏi: "Như vậy Tôn giả Gotama, không biết, không thấy khổ?", Ngài trả lời: "Này Kassapa, không phải Ta không biết, không thấy khổ. Này Kassapa, Ta biết khổ, này Kassapa, Ta thấy khổ". Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy nói lên cho con về khổ, bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy thuyết cho con về khổ.
-- Một người làm và chính người làm ấy cảm thọ (kết quả). Này Kassapa, như Ông gọi ban đầu "khổ do tự mình làm ra", như vậy có nghĩa là thường kiến.
Một người khác làm và một người khác cảm thọ. Này Kassapa, như vậy đối với người bị cảm thọ, được xảy ra như: "Khổ do người khác làm ra", như vậy có nghĩa là đoạn kiến.
Này Kassapa, từ bỏ hai cực đoan ấy, Như Lai thuyết pháp theo con đường trung đạo: Vô minh duyên hành, hành duyên thức... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này tập khởi. Nhưng do ly tham và đoạn diệt hoàn toàn vô minh, các hành diệt. Do các hành diệt nên thức diệt... (như trên)... Như vậy là toàn bộ khổ uẩn này đoạn diệt.
Khi được nghe nói vậy, lõa thể Kassapa bạch Thế Tôn:
-- Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, như người dựng đứng lại những gì bị quăng ngã xuống, phơi bày ra những gì bị che kín, chỉ đường cho kẻ lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đã được Thế Tôn dùng nhiều phương tiện trình bày, giải thích. Và nay con xin quy y Thế Tôn, quy y Pháp, quy y chúng Tỷ-kheo. Bạch Thế Tôn, con xin xuất gia với Thế Tôn, con xin thọ đại giới.
-- Này Kassapa, ai trước kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, nếu chúng Tăng đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo. Nhưng Ta nhận thấy cá tánh con người sai biệt nhau.
-- Bạch Thế Tôn, nếu những người xưa kia là ngoại đạo nay muốn xuất gia, muốn thọ đại giới trong Pháp và Luật này, phải sống bốn tháng biệt trú; sau khi sống bốn tháng biệt trú, chúng Tăng nếu đồng ý sẽ cho xuất gia, cho thọ đại giới, thời con sẽ xin sống biệt trú bốn năm, sau khi sống biệt trú bốn năm nếu chúng Tăng đồng ý, mong chúng Tăng cho con xuất gia, cho con thọ đại giới để thành vị Tỷ-kheo.
Và lõa thể Kassapa được xuất gia với Thế Tôn và được thọ đại giới.
Thọ đại giới không bao lâu, Tôn giả Kassapa ở một mình, an tịnh, không phóng dật, sống nhiệt tâm, tinh cần. Và không bao lâu vị này chứng được mục đích tối cao mà con cháu các lương gia đã xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình hướng đến; đó là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ngay trong đời sống hiện tại, tự mình với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị này chứng tri: "Sanh đã tận. Phạm hạnh đã thành, những gì nên làm đã làm, không còn trở lại trạng thái này nữa".
Và Tôn giả Kassapa trở thành một vị A-la-hán nữa.

(Tương Ưng Kinh, II)

("How is it, Master Gotama, is suffering created by oneself?"
"Not so, Kassapa," the Blessed One said.
"Then, Master Gotama, is suffering created by another?"
"Not so, Kassapa," the Blessed One said.
"How is it then, Master Gotama, is suffering created both by oneself and by another?"
"Not so, Kassapa," the Blessed One said.
"Then, Master Gotama, has suffering arisen fortuitously, being created neither by oneself nor by another?"
"Not so, Kassapa," the Blessed One said.
"How is it then, Master Gotama, is there no suffering?"
"It is not that there is no suffering, Kassapa; there is suffering."
"Then is it that Master Gotama does not know and see suffering?"
"It is not that I do not know and see suffering, Kassapa. I know suffering, I see suffering."
"When you are asked: 'How is it, Master Gotama, is suffering created by oneself?' you say: 'Not so, Kassapa.' When you are asked: 'Then, Master Gotama, is suffering created by another?'... 'Is suffering created both by oneself and by another?'... 'Has suffering arisen fortuitously, being created neither by oneself nor by another?' you say: 'Not so, Kassapa.' When you are asked: 'How is it then, Master Gotama, is there no suffering?' you say: 'It is not that there is no suffering, Kassapa; there is suffering.' When asked: 'Then is it that Master Gotama does not know and see suffering?' you say: 'It is not that I do not know and see suffering, Kassapa. I know suffering, I see suffering.' Venerable sir, let the Blessed One explain suffering to me. Let the Blessed One teach me about suffering."
"Kassapa, (if one thinks,) 'The one who acts is the same as the one who experiences (the result),' (then one asserts) with reference to one existing from the beginning: 'Suffering is created by oneself.' When one asserts thus, this amounts to eternalism. But, Kassapa, (if one thinks,) 'The one who acts is one, the one who experiences (the result) is another,' (then one asserts) with reference to one stricken by feeling: 'Suffering is created by another.' When one asserts thus, this amounts to annihilationism. Without veering towards either of these extremes, the Tathagata teaches the Dhamma by the middle: 'With ignorance as condition, volitional constructions (come to be); with volitional constructions as condition, consciousness.... Such is the origin of this whole mass of suffering. But with the remainderless fading away and cessation of ignorance comes cessation of volitional constructions; with the cessation of volitional constructions, cessation of consciousness.... Such is the cessation of this whole mass of suffering."
When this was said, the naked ascetic Kassapa said to the Blessed One:
"Magnificent, venerable sir! Magnificent, venerable sir! The Dhamma has been made clear in many ways by the Blessed One, as though he were turning upright what had been turned upside down, revealing what was hidden, showing the way to one who was lost, or holding up a lamp in the dark for those with eyesight to see forms. I go for refuge to the Blessed One, and to the Dhamma, and to the Bhikkhu Sangha. May I receive the going forth under the Blessed One, may I receive the higher ordination?"
"Kassapa, one who formerly belonged to another sect and desires the going forth and the higher ordination in this Dhamma and Discipline lives on probation for four months. At the end of four months, if the bhikkhus are satisfied with him, they give him the going forth and the higher ordination to the state of a bhikkhu. But individual differences are recognized by me."
"If, venerable sir, one who formerly belonged to another sect and desires the going forth and the higher ordination in this Dhamma and Discipline lives on probation for four months, and if at the end of the four months the bhikkhus, being satisfied with him, give him the going forth and the higher ordination to the state of a bhikkhu, then I will live on probation for four years. At the end of the four years, if the bhikkhus are satisfied with me, let them give me the going forth and the higher ordination to the state of a bhikkhu.")

(S.ii,17)
(Nguồn: Fb Vien Khong Tang)

Monday, December 2, 2019

Mấy nhận xét về chữ Quốc ngữ

Chân dung giáo sư Cao Xuân Hạo. Ảnh: Wikipedia
1.

Trên bình diện ngôn ngữ học lý thuyết, chữ quốc ngữ không phải là một cách viết thích hợp với tiếng Việt. Nó sử dụng tự mẫu La Tinh, một hệ thống văn tự phản ánh cấu trúc âm vị học của các ngôn ngữ biến hình kiểu châu Âu, trong đó đơn vị cơ bản là "tiểu âm vị" (microphoneme), một đơn vị được thể hiện bằng một "âm tố" ("speech sound"), trong khi đơn vị cơ bản của hệ thống âm vị học tiếng Việt là "tiếng", hay "hình tiết" (morphosyllabème) hay "trường âm vị" (macrophoneme)- vốn đồng thời là đơn vị ngữ nghĩa và ngữ pháp. Trong cuốn Âm vị học và tuyến tính (Phonologie et linéarité: Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaime, SELAF, Paris, 1985), tôi có chứng minh rằng lý thuyết âm vị học hiện hành chỉ có giá trị đối với các ngôn ngữ "tiểu âm vị" (micro-phonematic) như các thứ tiếng châu Âu chứ không thể dùng cho những thứ tiếng "đại âm vị" (macrophonematic) như tiếng Nhật, tiếng Malagasi, và nhất là các thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Thái, tiếng Việt, trong đó cái đơn vị âm vị học tương đương về cương vị cấu trúc với âm vị Âu châu là âm tiết (tiếng) chứ không phải là âm tố. Một thứ chữ như chữ quốc ngữ, chữ "Pin yin" hay chữ "Romaji" che giấu và xuyên tạc cái cấu trúc âm vị học đích thực của các thứ tiếng sử dụng nó, và làm cho người nghiên cứu lạc hướng hoàn toàn.

2.

Ðó là xét trên bình diện lý thuyết ngôn ngữ học cấu trúc. Còn trên bình diện thực tiễn, dùng chữ quốc ngữ cho tiếng Việt cũng không có hại bao nhiêu, vì thứ văn tự này cho phép phân biệt đầy đủ các âm thanh cần phân biệt của tiếng Việt [1]. Và mặc dầu việc vay mượn kiểu chữ này của phương Tây, theo ý tôi, là một công việc có phần đáng tiếc, nó vẫn có một thuận lợi khá quan trọng ở chỗ nó đưa nước ta vào cái khối cộng đồng lớn của những nước dùng chữ La Tinh trên sách báo, giấy tờ và biển hiệu. Nhờ đó, một khi "tiếng" đã được tháo rời ra thành âm, các văn bản tiếng Việt có thể sao đúng chính tả của bất cứ từ ngữ nào (đặc biệt là các tên họ) được viết bằng chữ La Tinh hoặc đã được chuyển tự sang hệ chữ La Tinh. Ðiều này làm cho việc phiên âm các tên họ của người nước ngoài trở nên hoàn toàn vô ích và thậm chí rất có hại, nhất là khi ta biết rằng theo thống kê sơ bộ hơn 90% các tên họ nước ngoài (kể cả người Pháp và người Anh) bị phiên âm sai chỉ vì người viết không biết đọc các tên họ ấy (chứ không phải vì quy tắc chính tả tiếng Việt không cho phép phiên âm đúng). Vả lại làm sao có thể biết đọc cho đúng tên họ của dăm trăm thứ tiếng trong nhân loại ? Trong tình hình văn hóa của thế giới ngày nay, việc truyền thông, trao đổi được thực hiện chủ yếu là qua văn bản, cho nên chính tả quan trọng hơn phát âm rất nhiều. Cái thói phiên âm sinh ra do một định kiến hoàn toàn vô căn cứ (chưa bao giờ được kiểm nghiệm), cho rằng quần chúng ít học và học sinh không thể viết đúng và đọc đúng những từ như volt, watt, ampère hay những tên như Marx, Engels. Thật ra nhiều người trong số chúng tôi đã làm thí nghiệm trên hàng trăm học sinh cấp một sau khi đã thí nghiệm trên con cái chúng tôi với những kết quả hết sức rõ ràng: chỉ cần chép lại một lần và ôn lại từ ba đến năm lần bằng cách "ám tả" theo trí nhớ là các cháu đủ thuộc vài chục tên riêng cho đến bốn năm năm sau, cùng với vài ba trăm tên khác được học thêm trong những năm kế theo [2].

3.

Kể từ những năm 20 của thế kỷ cho đến khi Cách mạng tháng Tám thành công, đã có nhiều người Pháp đề nghị cải tiến chữ quốc ngữ mà họ cho là bất hợp lý. Rồi đến khi miền Bắc được giải phóng, suốt ba năm trời đã diễn ra không biết bao nhiêu cuộc họp, đã in không biết bao nhiêu bài vở và kỷ yếu bàn về cách cải tiến chữ quốc ngữ, rồi cuối cùng người ta mới nhận ra rằng đó là một công việc không những hoàn toàn vô ích mà còn hết sức có hại, lặp lại một cách vô duyên một giai đoạn đã qua của lịch sử chính tả ở châu Âu mà ngày nay người Anh và người Pháp mỗi khi nhớ lại không khỏi cảm thấy bẽ bàng. Số là năm 1897, sau khi Hội Ngữ âm học quốc tế (IPA) ra đời và công bố hệ tự mẫu gọi là Alphabet Phonétique International, một số hội viên và hàng trăm người khác khởi động một phong trào rầm rộ cực lực lên án chính tả Anh và Pháp mà họ cho là hết sức phi lý, cần phải bỏ ngay vì đó là "một nghĩa địa của những hình thái cổ lỗ đã lỗi thời từ lâu" để thay nó bằng một thứ chữ viết phản ánh cách phát âm một cách trung thành và nhất quán, theo nguyên tắc "mỗi chữ ghi một âm và mỗi âm ghi bằng một chữ".

May thay, với sự đóng góp của những người am hiểu ngôn ngữ hơn, người ta đã nhận ra rằng chữ viết có một chức năng khác với lời nói, chủ yếu là ở chỗ người đọc một văn bản rất khác với người tham gia đối thoại, và chữ viết được đọc bằng mắt chứ không phải nghe bằng tai, cho nên cách nhận diện từ ngữ trên một văn bản rất khác với cách nhận diện từ ngữ khi nghe một lời nói bằng miệng với sự hiện diện của người phát ngôn ngay trong khi đối thoại. Khi một hệ chữ viết đã được dùng trong vài ba thế kỷ, nó trở thành một truyền thống văn hóa. Mỗi từ ngữ dần dần có một diện mạo riêng, một Gestalt mà người ta đã quen thuộc đến mức không thể thay đổi được nữa. Và cái Gestalt thị giác do cách viết tạo nên được liên hội với cái nghĩa của từ ngữ bất chấp cách phát âm ra sao, và nhờ đó mà người đọc phân biệt được các từ đồng âm mặc dầu không có sự giúp đỡ của tình huống đối thoại hay của sự hiện diện của người đối thoại mà người kia có thể hỏi lại ngay khi không hiểu vì không biết người phát ngôn muốn dùng từ nào trong số những từ đồng âm. Ðó là chưa nói rằng chính tả còn cho biết khá nhiều điều hữu ích về từ nguyên, và do đó, về nghĩa của những từ dùng căn tố Hy Lạp, La Tinh hay Sanskrit, về gốc gác của những tên riêng, và do đó, về quốc tịch hay tôn giáo của người đương sự. Cho nên từ khi có cái phong trào "bài xích và cải cách chính tả Anh Pháp" cho đến nay đã đúng một thế kỷ mà hai hệ thống chính tả này vẫn tồn tại y nguyên, và ngày nay họa chăng chỉ có những người không được bình thường may ra mới còn nghĩ đến chuyện cải cách chính tả Anh hay Pháp, mặc dầu so với chữ quốc ngữ, hai thứ chính tả này còn xa cách phát âm gấp bội.

4.

Chữ viết không phải là phiên âm, vì ngôn ngữ không phải chỉ là âm thanh: nó còn có nghĩa nữa. Cho nên một hệ thống chữ viết lý tưởng phải phản ánh, ít nhất là một phần, cái nghĩa của từ ngữ. Từ cổ đại, loài người đã có một hệ thống chữ viết gần đạt đến cái lý tưởng ấy: chữ Hán. Một bằng chứng sáng rực của tính ưu việt của chữ Hán là hiệu quả tuyệt vời của việc sử dụng nó cho một ngôn ngữ thuộc một loại hình hoàn toàn khác tiếng Hán: tiếng Nhật, một thứ tiếng đa âm tiết thuộc loại hình chắp dính (agglutinating). Khi dùng cho tiếng Nhật, nếu không kể một số rất ít những từ gốc Hán được người Nhật phát âm hao hao như tiếng Hán (các từ Hán-Nhật còn giữ dạng đơn âm hay chỉ biến thành song âm), chữ Hán chỉ biểu thị nghĩa, rồi thông qua nghĩa mà biểu thị âm (khi hiểu nghĩa rồi, người Nhật mới chọn giữa hai ba cách phát âm có thể bằng cách căn cứ vào văn cảnh). Dựa vào những thành quả ngoạn mục của việc dạy tiếng Anh bằng chữ Hán cho các học sinh Mỹ mắc chứng dislexia (không học được cách "đánh vần"), một số nhà ngữ học Mỹ đã thấy rõ tính ưu việt của một hệ thống văn tự phi ngữ âm và đã đi đến chỗ tin rằng đó chính là thứ chữ tương lai của nhân loại. Vả lại ai cũng biết rằng chính là nhờ chữ Hán mà người Trung Quốc, vốn nói nhiều ngôn ngữ khác nhau (về phương diện ngôn ngữ học, tiếng Bắc Kinh, tiếng Quảng Ðông, tiếng Triều Châu là những ngôn ngữ khác nhau chứ không phải là những phương ngữ, vì khoảng cách giữa các thứ tiếng ấy xa hơn khoảng cách giữa các ngôn ngữ Slavian như tiếng Nga với tiếng Nam Tư (Serbo-Croatian) hay tiếng Bulgari rất nhiều), có được một công cụ giao tiếp chung. Một nhà ngữ học Pháp gọi chữ Hán là "một thứ esperanto cho đôi mắt của các thần dân Trung Hoa". Thứ esperanto này còn có tầm tác dụng vượt xa bờ cõi Trung Quốc: nó còn là phương tiện giao tiếp đắc lực giữa người Hán và các sứ giả "man tộc" như người Hàn, người Nhật, người Giao Chỉ, người Hồ, và các thứ "rợ" khác, vốn thường bút đàm với người Hán (và với nhau) nhiều hơn là ngôn đàm.

5.

Nói đến đây, tôi chắc các vị hiểu tại sao chính tả tiếng Anh và tiếng Pháp "bất hợp lý" đến thế mà vẫn không thể thay đổi được. Khi lớn tiếng lên án chữ viết đương thời, những người Anh và những người Pháp cấp tiến ngày ấy cũng như những người Việt cấp tiến của thời kỳ 1954 (và ngay đến ngày nay hình như vẫn còn sót lại) chỉ chăm chăm vào một tiêu chuẩn duy nhất: ngữ âm (hay âm vị học). Họ phán xử hệ thống chính tả bằng cách đặt câu hỏi: Nó đã phản ánh thật đúng cách phát âm chưa ? Nó đã nhất quán đi theo nguyên tắc "âm và chữ tương ứng một đối một" hay chưa ? Còn những tiêu chuẩn khác thì họ không cần biết đến. Ở đây tôi chỉ xin nhắc đến tiêu chuẩn "truyền thống" hay "tập quán". Như trên kia đã nói, khi người ta đã có nhiều thế kỷ để quen với diện mạo văn tự của các từ ngữ, cái diện mạo ấy trở thành cái hồn của chữ nghĩa. Nó biểu hiện ý nghĩa của ngôn từ không cần thông qua cách phát âm (vốn thay đổi tuỳ theo từng vùng), thành thử mọi mưu đồ cải cách đều là một sự xúc phạm đến truyền thống văn hóa. Viết gia (trong gia đình) thành za hay da, viết lý (trong luân lý) thành lí, viết yêu thành iêu hay iâw, viết qua thành kwa hay cwa trong nhiều thập kỷ nữa vẫn sẽ được tri giác như những lỗi của một lớp người thiếu hiểu biết, nếu không là một lớp người coi khinh hàng chục thế hệ đi trước, trong đó có những bậc thầy đã dựng nên cả một nền văn học hiện đại. Và như thế để làm gì? Chẳng lẽ chỉ vì muốn tiết kiệm khoảng 2% lượng giấy in sách? Chỉ cần tiết kiệm cỡ chữ "corps 10" bằng cỡ chữ "corps 9" cũng tiết kiệm được gấp mười lần như thế. Dĩ nhiên, một cuộc cải cách như thế sẽ không có hại gì đến mấy triệu học sinh vỡ lòng mới bắt đầu học thứ chữ mới. Nhưng ta cứ thử tính số tiền tốn phí để in lại tất cả các sách vở cần thiết cho các thế hệ học thứ chữ mới. Và thử tính xem có sáu mươi mấy triệu người lớn trở thành mù chữ (hay ít ra cũng thành những người dốt nát chuyên viết sai chính tả do những tập quán cũ và cách đánh vần các văn bản một cách khó nhọc, ít ra là trong dăm bảy năm sau cải cách) [3].

Nhược điểm của chữ quốc ngữ không phải ở chỗ nó chưa thật là một hệ thống phiên âm vị học, mà chính là ở chỗ nó có tính chất thuần túy ghi âm, và hoàn toàn bất lực trước nhiệm vụ biểu hiện nghĩa mà lẽ ra nó phải đảm đương, và nhược điểm ấy lộ rõ nhất và tai hại nhất là trong trường hợp các từ đồng âm vốn có rất nhiều trong tiếng Việt. Tuy vậy, cũng gần giống như chữ Anh và chữ Pháp, những chỗ bị người ta coi là bất hợp lý chính là những chỗ làm cho nó phân biệt nghĩa và cội nguồn của các từ đồng âm như gia và da, lý và lí (trong lí nhí ) [4], v.v.. Ðáng tiếc là những trường hợp như thế không lấy gì làm nhiều. Nhưng có ít vẫn còn hơn là không có, như khi ta thay chữ quốc ngữ bằng một thứ chữ thuần túy ghi âm. Bỏ chữ Hán và chữ Nôm là một tai họa không còn hoán cải được nữa, nhưng ta còn có thể bổ cứu cho sự mất mát này bằng cách dạy chữ Hán như một môn bắt buộc ở trường phổ thông. Người Việt sẽ không thể giỏi tiếng Việt nếu không thấu đáo nghĩa của các từ Hán-Việt, vốn chiếm tỷ lệ hơn 70% trong vốn từ vựng tiếng Việt.

___Cao Xuân Hạo

(Báo cáo đọc tại Hội nghị "Chữ quốc ngữ và sự phát triển của văn hóa Việt Nam", Trường Ðại học Tổng hợp, Tp. Hồ Chí Minh 1995)

[1] Về những cái lợi và cái hại của chữ quốc ngữ, xin xem bài Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn? (Kiến thức ngày nay, số 14, ngày 15-6-1994).

[2] Xin xem bài "Về cách viết và cách đọc các tên riêng nuớc ngoài trên văn bản tiếng Việt", cũng có đăng trong tập này

[3] Xin xem thêm bài "Có cần cải cách chữ Quốc ngữ không?" đăng trên Bán nguyệt san Kiến thức ngày nay, số 223, năm 1996

[4] Xem thêm Cao Xuân Hạo, "Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn", cũng có đăng trong tập này.

Nguồn: Tiếng Việt, văn Việt, người Việt, nxb Trẻ 2001, tr.107-113.
(http://amvc.free.fr/Damvc/GioiThieu/CaoXuanHao/QuocNguCXHao.htm)

======

Ps: Chữ Tây và chữ Hán, thứ chữ nào hơn?

Từ những thập kỷ đầu của thế kỷ XX trở về trước, người châu Âu thường yên trí rằng mình dùng thứ chữ viết hợp lý nhất, khoa học nhất, tiến bộ nhất. Vì thứ chữ ABC của họ là thứ chữ ghi âm. Năm 1897, Hội ngữ âm học quốc tế ra đời cùng với bảng chữ cái gọi là Tự mẫu phiên âm quốc tế - International Phonetic Alphabet (IPA), được coi là lý tưởng của lối chữ ghi âm. Trong mấy thập kỷ kế theo, người ta thi nhau lên án những cái "bất hợp lý" trong hệ thống chính tả của những thứ tiếng như tiếng Pháp và tiếng Anh ("phát âm một đàng viết một nẻo") và những đề án cải cách chính tả thi nhau lần lượt ra đời.

Thế nhưng gần một trăm năm đã qua, mà không có một đề nghị nhỏ nào trong các đề án đó được thực hiện.

Thật là may, vì đó là một việc không thể làm được, và không nên làm một chút nào. Niềm tự hào ấu trĩ về lối viết ABC cũng như những cáo trạng ồn ào về tính "bất hợp lý" của chính tả Pháp, Anh và những đề nghị cải cách chữ viết đủ kiểu đều xuất phát từ một sự lầm lẫn thô thiển: lúc bấy giờ người ta chưa hiểu cho lắm là chữ viết có chức năng gì trong đời sống và trong nền văn minh, và nó cần phải như thế nào mới làm tròn được chức năng ấy ở mức tối ưu.

Kể từ những năm 30 trở đi, sau những công trình của Trường ngữ học Prague nêu rõ những chức năng và yêu cầu của ngôn ngữ viết khiến cho nó khác với ngôn ngữ nói, những tiếng kêu gào trước kia dần dần im lặng, và chẳng còn mấy ai buồn nhắc đến nữa.

Người ta đã hiểu rằng không có lấy chút cơ sở khoa học nào để khẳng định rằng chữ viết ghi âm là "khoa học nhất", và thứ chính tả lý tưởng là "phát âm thế nào viết thế ấy".

Kịp đến thập kỷ 70, những bước tiến lớn của ngành ngữ học và những phát hiện của âm vị học về khái niệm "tổ hợp âm" càng khiến cho các định kiến cũ lộ hết tính chất vô căn cứ của nó.

Số là ở phương Tây người ta nhận thấy có một số trẻ em không sao học đánh vần được, và do đó học mãi cũng vẫn không biết viết. Số này rất ít, nhưng không ít đến mức có thể bỏ mặc làm ngơ, nó chiếm khoảng 0,01% đến 0,02% số trẻ em ở lứa tuổi học tiểu học. Nghĩa là trong một triệu em có khoảng từ một ngàn hai đến hai ngàn em như thế. Người ta gọi "chứng bệnh" này là alexia (chứng không đọc chữ được) hay dislexia (chứng mất khả năng đọc chữ). Những em này thường được coi là "khuyết tật" hay thậm chí "quá đần độn" không hy vọng gì trở thành người có chút ít học thức được.

May thay, có những nhà ngữ học nảy ra cái ý nghi ngờ rằng nguyên nhân của tình trạng này không phải ở các em, mà chính là ở lối viết ABC. Năm 1978, một nhóm ngữ học Mỹ quyết định làm một cuộc thí nghiệm. Họ mở một số lớp gồm toàn trẻ em "khuyết tật" mắc chứng alexia và dạy chương trình tiểu học cho chúng bằng chữ Hán (xin bạn đọc hiểu đúng cho: dĩ nhiên các em ấy học tiếng Anh và học các môn khác bằng tiếng Anh, nhưng các từ tiếng Anh đều được viết bằng chữ Hán. Chẳng hạn, câu He came to a high mountain được viết bằng sáu chữ Hán là "Tha đáo cập nhất cao sơn"). Sau năm đầu, các em đọc và viết được 1600 từ đơn, và về khả năng hấp thu tri thức, chúng tỏ ra không "đần độn" chút nào, mà kết quả học tập của chúng lại có phần trội hơn các em học tiểu học bằng chữ ABC.

Người ta hiểu ra rằng các em này chẳng phải có khuyết tật gì, chẳng qua trong não của chúng hình như công năng của bán cầu bên phải (tri giác tổng hợp) trội hơn công năng của bán cầu bên trái (tri giác phân tích) cho nên chỉ nhận dạng được chữ Hán vốn có hình thể đặc trưng rất rõ, mà không tách được các từ ra từng âm tố - từng chữ cái.

Ðể hiểu rõ hơn hiện tượng này, ta hãy xét qua cơ chế của việc đọc chữ. Khi đọc, người biết chữ thành thục không hề đánh vần. Họ nhận ra các từ ngữ qua diện mạo chung của chúng, không khác gì ta nhận ra một vật, một người quen không phải bằng cách lần lượt nhận ra từng chi tiết (mắt, rồi mũi, rồi miệng, rồi tai ...) mà nhận ra ngay tức khắc toàn thể diện mạo của vật hay người đó [1] .

Trong tâm lý học hiện đại, khái niệm "diện mạo tổng quát" này được gọi là Gestalt. Cái Gestalt này càng gọn ghẽ (prégnant) bao nhiêu thì việc nhận dạng "tức khắc" càng dễ dàng và tự nhiên bấy nhiêu. Về phương diện này, chữ Hán hơn hẳn chữ Tây. Mỗi chữ Hán là một Gestalt tuyệt hảo, trong khi cái chuỗi chữ cái La-Tinh chắp thành một hàng dài không làm thành một hình ảnh có thể nhận diện dễ dàng trong một chớp mắt như chữ Hán. Ta thử so sánh cách viết mấy từ sau đây, trong cách viết bằng chữ Hán được đặt cạnh cách viết bằng chữ Tây (ABC)*.

Không có gì đáng lấy làm lạ nếu sách chữ Tây rất khó đọc theo cách "Nhất mục thập hàng" như sách chữ Hán.

Có khá nhiều người Việt nghĩ đến những ai đã đem chữ "Quốc ngữ" thay cho chữ Hán, chữ Nôm với một lòng biết ơn sâu xa, cho rằng việc đó đã đưa nước ta tiến vào hiện đại. Nghĩ như thế tôi e có phần vội vàng. Chẳng lẽ sự tiến bộ của Trung Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng, Ðại Hàn, Singapore không đủ để chứng minh sự sai trái của ý nghĩ đó hay sao?

Năm 1985, trong một cuốn sách nổi tiếng, cuốn Le nouveau monde sinisé (Thế giới Hán hóa ngày nay), Léon Vandermeersch [2] khẳng định rằng sở dĩ những "con rồng" nói trên thành rồng được chính là vì họ vẫn dùng chữ Hán [3] . Chỉ còn một nước chưa thành rồng được: Việt Nam. Nước này đã bỏ mất chữ Hán mà trước kia nó đã từng dùng Dĩ nhiên, ta có thể không đồng ý với học giả này, nhưng khó lòng có thể nói rằng đó là một chuyện hoàn toàn ngẫu nhiên.

Chữ ABC đối với đa số quả có một ưu điểm lớn là học rất nhanh. Muốn đọc chữ ABC chỉ cần học vài tháng, trong khi muốn viết 1200 chữ Hán thông dụng thôi đã phải mất một năm. Ưu điểm đó khiến cho chữ "quốc ngữ" đắc dụng trong thời Pháp thuộc, khi mà người ta cần thanh toán việc học đọc học viết tiếng mẹ đẻ cho nhanh để chuyển sang học chữ Pháp và tiếng Pháp. Nó cũng đắc dụng trong thời kháng chiến, khi cần thanh toán mù chữ cho thật nhanh để còn lo đánh giặc.

Nhưng trong hoàn cảnh độc lập, trong hòa bình, trong sự nghiệp xây dựng văn hóa, cái ưu thế này không còn lớn như trước nữa. Trong những điều kiện bình thường, dành vài ba năm tiểu học cho việc học chữ (đồng thời các môn khác), không phải là một việc gì quá phí phạm. Tốc độ và chất lượng giảng dạy ở các trường tiểu học, trung học và đại học ở Trung Quốc, Nhật Bản, Ðài Loan, Hương Cảng, Singapore không hề kém so với các nước dùng chữ Tây, trong đó có Việt Nam.

Trong hoàn cảnh lịch sử của nước ta còn có một điều làm cho chữ "quốc ngữ" đâm ra có vẻ ưu việt đặc biệt: đó là sự tồn tại của chữ Nôm hồi bấy giờ. Trước khi có chữ "quốc ngữ", ông cha ta dùng chữ Nôm để viết tiếng mẹ đẻ. Mà chữ Nôm thì khó hơn chữ Hán rất nhiều (theo một chuyên gia Hán Nôm, nó khó gấp 5 lần). Chính nhờ sự tương phản với thứ chữ phức tạp, khó học ấy mà chữ "quốc ngữ" có vẻ như "tiện"hơn hẳn.

Giá hồi ấy ông cha ta không sáng tạo ra chữ Nôm, mà cứ dùng chữ Hán để viết cả văn Hán lẫn quốc văn như người Nhật Bản đã làm (và hiện nay vẫn làm), nghĩa là mỗi chữ có hai cách đọc, Hán âm (Kan-on) và Quốc âm (Go-on) [4] , thì tình hình có lẽ đã khác.

Tiếng Nhật là tiếng đa âm tiết; thế mà người Nhật vẫn dùng được chữ Hán (Kanji) cho hầu hết các văn bản, tuy thỉnh thoảng có thêm như chữ Kana (ghi từng âm tiết) cho các phụ tố (như no: chỉ sinh cách, de chỉ vị cách , ni chỉ tặng cách v.v.). Nhưng nếu vậy làm sao người đọc biết được một chữ nào đó cần được đọc theo Hán âm hay theo quốc âm? Chẳng hạn nếu viết , làm sao biết lúc nào đọc là sơn, lúc nào đọc là núi? Trong đa số trường hợp, văn cảnh sẽ mách cho ta biết. Chẳng hạn nếu thấy viết 高山上 ta sẽ biết phải đọc là cao sơn thượng, còn nếu thấy 上山高, ta sẽ biết đó là trên núi cao, trừ phi có những lý do khác không cho phép đọc như vậy. Nếu cần, có thể dùng một vài dấu phụ. Kinh nghiệm hàng chục thế kỷ dùng chữ Hán để viết tiếng Nhật ít ra cũng chứng minh được rằng lối viết nói trên có thể dùng một cách có hiệu quả. Tiếng Nhật, vốn là ngôn ngữ chắp dính (agglutinating) đa tiết, đã dùng được chữ Hán như vậy, thì tiếng Việt, vốn cùng loại hình đơn lập như tiếng Hán, lại càng dễ dùng chữ Hán hơn.

Tiếng Việt có một cấu trúc ngữ âm khác hẳn các thứ tiếng châu Âu. Trên hơn 320 trang sách, người viết mấy dòng này đã chứng minh rằng âm vị học của phương Tây (vốn là nền tảng lý thuyết của cách viết ABC) không thể đem ứng dụng để nghiên cứu và phân tích những thứ tiếng đơn lập như tiếng Hán, tiếng Việt hay những thứ tiếng chắp dính như tiếng Nhật, hay những thứ tiếng "có sườn phụ âm" như tiếng A Rập, tiếng Do Thái v.v. Nó chỉ có giá trị và hiệu lực đối với các ngôn ngữ biến hình. Việc phân tách mỗi tiếng (âm tiết) ra thành nhiều âm tố (speech sound), rồi thành nhiều âm vị (phonems), là một hiện tượng kỳ quặc chỉ có thể có với một cấu trúc ngữ pháp trong đó mỗi tiếng có thể gồm hai ba yếu tố có nghĩa (chẳng hạn, từ shla trong tiếng Nga (1 âm tiết) gồm có ba hình vị (ba yếu tố có nghĩa): sh có nghĩa là "đi", l có nghĩa "quá khứ", a có nghĩa "giống cái" [5] .

Từ đó ta có thể thấy rõ rằng chữ viết ABC, vốn phản ánh cái cấu trúc ấy, khó lòng thích hợp với tiếng Việt và cách tri giác của người Việt đối với tiếng mẹ đẻ của họ. Tiếng Việt (và khá nhiều thứ tiếng khác ở Việt Nam), tiếng Hán, tiếng Nhật, tiếng Hàn, tiếng Thái, tiếng Lào, tiếng Myanmar, tiếng Malagasy (Madagascar), tiếng Mixteko, tiếng Mazateco, v.v. là những ngôn ngữ âm tiết tính, trong đó âm tiết là một đơn vị có cương vị ngôn ngữ học minh xác, lại không thể phân tích ra thành những "âm tố" có cương vị tương đương, trong khi trong các thứ tiếng châu Âu chính âm tố mới có cương vị của những đơn vị ngôn ngữ ("âm vị") còn âm tiết lại không có cương vị ngôn ngữ học gì. Không phải ngẫu nhiên mà châu Âu chính là nơi phát minh ra chữ viết ABC. Và sở dĩ thứ chữ này được phổ biến ra khắp thế giới, khônh phải vì một nguyên nhân ngôn ngữ học, mà chính là vì địa vị thống trị của các nước đế quốc chủ nghĩa ở châu Âu.

Hiện nay tất cả các khách du lịch đến nước ta đều kinh ngạc trước tình trạng người Việt không đọc được những dòng chữ đề trên các đền đài và di tích lịch sử. Họ nói "Các ngài là những người mù chữ ngay trên đất nước mình". Nạn mù chữ Hán cũng là cội nguồn của việc hiểu sai các từ Việt gốc Hán. Cũng như người Pháp không thể giỏi tiếng Pháp nếu không biệt tiếng La Tinh, người Việt Nam cũng không thể giỏi tiếng Việt nếu không biết chữ Hán, thứ chữ đã từng được dùng để viết hơn 70% số từ của tiếng Việt, những từ mà ngày nay vẫn được dùng với một tần suất rất cao.

Việc học chữ Hán không thể không được đưa vào chương trình trung học.

Ngày nay nhiều người, trong đó có cả những nhà ngữ học phương Tây, đã thấy rõ những ưu điểm lớn lao của chữ Hán. Có người còn tiên đoán rằng chỉ vài ba mươi năm nữa, cả thế giới sẽ nhất loạt dùng chữ Hán để viết tiếng mẹ đẻ của từng dân tộc (theo họ, đến lúc ấy các hàng rào ngôn ngữ - barrières linguistiques - xưa nay vẫn ngăn cách các dân tộc, sẽ bị vô hiệu hoá, và đến lúc ấy nhân loại sẽ giao tiếp với nhau dễ dàng gấp trăm lần so với hiện nay.quay lại với chữ Hán. Việc từ bỏ chữ Hán để chuyển sang chữ Tây là một sự kiện không còn hoán cải được nữa rồi. Nhưng, cũng như một trận hồng thủy, những tác hại của nó có thể khắc phục được: ta còn có thể học và nghiên cứu chữ Hán như một di sản của văn hoá dân tộc, và do đó mà bảo tồn một truyền thống quý giá đi đôi với những nghệ thuật cao cả như thư pháp, vốn là tài sản chung của các dân tộc Viễn Ðông và có thể làm thành một mối dây liên lạc giữa các dân tộc rất gần gũi nhau về văn hoá này.

Cố giáo sư Cao Xuân Hạo
(Ðăng lần đầu trên Kiến thức ngày nay số 14, 15-6-1994) [6]

Chú thích:

[1] Do đó, lối học đọc thông qua "đánh vần" là một cách làm sai trái ngay từ nguyên lý. Bây giờ trên thế giới không còn mấy nơi dùng cách học này

[2] Hiện nay là Giám đốc Trường Viễn Đông Bác Cổ (École francaise d´Extrême-Orient- trước đây ở Hà NộI, bây giờ ở Paris).

[3] Léon Vandermeersch 1985, Le nouveau monde sinisé. Paris: Seuil.

[4] Chẳng hạn, cách đọc Kan-on của chữ SƠN…* là [san], còn Go-on là [yama].

[5] Cao Xuân Hạo 1985, Phonologie et linéarité. Réflexions critiques sur les postulats de la phonologie contemporaine. Paris: SELAF.

[6] Sau khi KTNN đăng bài này, toà soạn có nhận được nhiều ý kiến phản đối tác giả, trong đó có một bức thư viết: "... hình như ông Hạo học quá nhiều thứ vô bổ cho nên quên mất thứ quan trọng nhất: đạo làm người. Một người đã đưa nước Việt Nam từ cõi man rợ đến ánh sáng văn minh rực rỡ của châu Âu như Alexandre de Rhodes mà ông nỡ quên ơn thì thử hỏi ông đi học bấy nhiêu năm để làm gì?"

Hoá ra công ơn của ông A.de Rhodes là thế. Tác giả bức thư không biết rằng vị thừa sai này tuyệt nhiên không góp một chút gì vào quá trình xây dựng chữ quốc ngữ (từ đầu đến cuối, đó là công sức của các giáo sĩ Bồ Ðào Nha, như những tài liệu mới công bố sau này đều xác nhận). Vả lại nước ta không thể coi là một nước "man rợ" trước khi có chữ "quốc ngữ", và việc Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản và hàng trăm nước khác không la tinh hoá chữ viết mà vẫn tiến nhanh hơn ta nhiều, cũng cho thấy rằng cái "ơn" của thứ chữ này không lớn đến mức ấy.

Wednesday, October 9, 2019

Nobel Y sinh 2019: Mở hướng đi mới điều trị ung thư

Từ trái sang: ba nhà khoa học Gregg L. Semenza, Peter Ratcliffe, và William G. Kaelin - Ảnh: AFP, REUTERS

***
Tuổi Trẻ trò chuyện cùng TS Lê Đức Dũng - Phòng thí nghiệm nghiên cứu ung thư máu và ghép tế bào gốc, BV ĐH Wuerzburg (Đức) - về tính ứng dụng của công trình đoạt giải năm nay.

* Ủy ban giải thưởng Nobel nhận định "công trình nghiên cứu đã tiết lộ cơ chế của một trong những quá trình thích ứng cơ bản nhất của sự sống". Xin ông giải thích thêm.

- Cụ thể, các nhà khoa học đã phát hiện ra các protein (cũng như xác định được các gen của những protein này) giúp cho cơ thể chúng ta thích ứng với tình trạng thiếu hụt oxy khi nồng độ của nó thấp hơn bình thường (thuật ngữ tiếng Anh là "hypoxia") bằng cách sản xuất ra nhiều hồng cầu hoặc hình thành nhiều mạch máu hơn để giúp cơ thể hoặc các cơ quan có thể nhận đủ oxy.

Quá trình tiến hóa lâu dài đã giúp cơ thể chúng ta có những cơ chế thích ứng tuyệt vời với những thay đổi từ môi trường xung quanh, cũng như thay đổi trong cơ thể.

Tuy nhiên, để hiểu được các cơ chế đó ở mức độ phân tử hay tế bào thì không dễ dàng và thường phải nghiên cứu lâu dài. Một khi hiểu được các cơ chế cơ bản, chúng ta sẽ có thể áp dụng vào việc chăm sóc sức khỏe và điều trị bệnh.

Lấy ví dụ, trong các hoạt động hằng ngày có những lúc cơ thể chúng ta cần nhiều oxy hơn mức bình thường. Hoặc có những lúc chấn thương thì một bộ phận nào đấy được cung cấp máu ít hơn. Những thay đổi đó buộc cơ thể chúng ta phải có cơ chế để thích nghi.

Những người thường xuyên tập thể thao thì cơ thể họ thích nghi bằng cách sản xuất ra nhiều hồng cầu hơn, hay sẽ hình thành nhiều mạch máu hơn để cung cấp đủ oxy cho các cơ quan khi vận động mạnh. Điều đó cũng đúng với những người sống ở độ cao lớn, máu của họ thường có nhiều hồng cầu hơn.

Cơ chế thích nghi với nồng độ oxy đã được nghiên cứu khá sâu và bắt đầu có những ứng dụng trong phát triển thuốc trị bệnh. Các công trình nghiên cứu của ba nhà khoa học này rất xứng đáng được vinh danh, nó cũng khích lệ lĩnh vực nghiên cứu cơ bản trong sinh học.

* Vì sao Ủy ban giải thưởng Nobel cho rằng những phát hiện trong công trình này lại mở đường cho những hướng đi mới trong việc tìm kiếm các phương pháp trị bệnh thiếu máu, ung thư và nhiều bệnh khác?

- Từ các công trình này chúng ta hiểu được cơ chế mà cơ thể sản xuất ra nhiều hồng cầu hơn. Cụ thể, chúng ta đã biết hormone erythropoietin (EPO) được sản xuất từ thận kích thích sản xuất hồng cầu.

Các nhà khoa học đã tìm ra gen điều khiển EPO, từ đó chúng ta có thể phát triển những thuốc tăng cường sự tiết EPO, hoặc can thiệp vào những điểm khác trong cơ chế, giúp cơ thể sản xuất thêm hồng cầu, giúp trị bệnh thiếu máu.

Với bệnh ung thư, các tế bào ung thư thường kích thích tạo ra thêm nhiều mạch máu giúp tế bào ung thư phát triển nhanh. Cũng nhờ hiểu biết từ các công trình nghiên cứu này, chúng ta có thể tìm cách ngăn chặn sự hình thành mạch máu mới trong ung thư. Ngoài ra, cách tăng cường sản xuất hồng cầu và mạch máu cũng có thể giúp điều trị các bệnh về tim mạch.

* Theo quan niệm y học phương Đông, cơ thể con người có khả năng tự điều chỉnh rất tuyệt vời. Có sự liên hệ nào giữa triết lý cân bằng tự nhiên kỳ diệu của con người và cơ chế cảm nhận để thích ứng với lượng oxy từ cấp độ tế bào như những gì gợi mở trong công trình khoa học vừa được giải Nobel không?

- Hiện nay có nhiều nghiên cứu cho thấy trong y học cổ truyền có rất nhiều quan điểm phù hợp với khoa học hiện đại. Môi trường sống cũng như cơ thể chúng ta luôn có những thay đổi liên tục. Trong cơ thể chúng ta hằng ngày luôn có những biến đổi và đột biến. Tuy nhiên cơ thể chúng ta luôn có các cơ chế điều chỉnh, thay đổi để phù hợp với ngoại cảnh hoặc ngăn chặn các đột biến có hại.

Khi cơ thể có sự cân bằng thì chắc chắn nó sẽ không cần thay đổi nhiều, như vậy cũng sẽ ít bệnh tật hơn. Vì khi cơ thể buộc phải thay đổi để thích nghi, cũng có nghĩa xác suất các thay đổi đó gây lỗi hoặc kích ứng cơ thể cũng cao hơn và khả năng mắc bệnh cũng sẽ cao hơn.

Tuy nhiên có những thay đổi mà cơ thể chúng ta không thể tự điều chỉnh được thì lúc đó chúng ta cần những can thiệp bên ngoài. Lúc đó, y học hiện đại thường có những can thiệp nhanh chóng và hiệu quả nhờ tác động trực tiếp lên các cơ chế gây bệnh hoặc làm giảm triệu chứng.

Luyện tập thể thao là một cách giúp cơ thể sản xuất nhiều hồng cầu hơn, nhiều mạch máu hơn và sẽ giúp các bộ phận cơ thể hoạt động tốt hơn. Trong trường hợp môi trường hoặc một bộ phận nào đó có hàm lượng oxy ít hơn thì những người thường xuyên tập luyện có lợi thế hơn trong việc cung cấp nhiều oxy hơn cho tế bào, nhờ đó ít sinh bệnh hơn.

------

"Bộ ba" giải thưởng

William G. Kaelin là giáo sư tại Đại học Harvard và làm việc tại Viện y khoa Howard Hughes của Mỹ. Đồng hương của ông Kaelin, giáo sư Gregg L. Semenza giảng dạy tại Đại học Y khoa Johns Hopkins và là giám đốc chương trình mạch máu tại Viện Kỹ thuật tế bào. Trong khi đó, bác sĩ người Anh Peter Ratcliffe chuyên về sinh học tế bào và phân tử. Ông có công trình nghiên cứu về các phản ứng của tế bào đối với tình trạng thiếu oxy.

Theo Guardian, chiến thắng của bộ ba nhà khoa học trên cũng không quá bất ngờ bởi họ cũng từng đoạt giải thưởng Albert Lasker về nghiên cứu y học cơ bản vào năm 2016. Giải thưởng Lasker được ví như Nobel của Mỹ và một số người từng đoạt giải này cũng giành giải Nobel.

NGÔ HẠNH

***
D. KIM THOA thực hiện

Nguồn: https://tuoitre.vn/nobel-y-sinh-2019-mo-huong-di-moi-dieu-tri-ung-thu-20191008080824821.htm?

Lá Bàng chữa bệnh

Lá bàng dập tắt được bệnh lở mồm long móng trong vòng một tuần
Ngồi xem tivi thấy người ta quẳng những con lợn béo tốt, hồng hào bị lở mồm long móng vào lửa để thiêu tôi vô cùng tiếc. Tiếc vì chúng ta có thể chữa khỏi bệnh cho chúng một cách dễ dàng trong vòng một tuần bằng lá bàng. Tiếc vì nông dân nước mình còn nghèo, bữa cơm của họ còn đạm bạc lắm. Tiếc vì Nhà nước lại phải bỏ tiền ra để đền bù. Sau nhiều ngày trăn trở tôi quyết định viết bài báo này.
Năm 1983 tôi có đọc quyển “Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam” của GS.TS Đỗ Tất Lợi. Mục viết về cây bàng, GS dạy: “Cây bàng dùng để chữa sâu quảng: lá đun nước ngâm vết thương, búp sao lên, tán thành bột rắc”.
Tôi đi tìm hiểu và biết được: Bệnh sâu quảng là bệnh mà ở sống chân của bệnh nhân xuất hiện những mụn; những mụn này bị nhiễm trùng tạo thành những lỗ đường kính khoảng 1 – 1,5cm, luôn đầy mủ và nước vàng luôn rỉ ra; ở những lỗ đó có khi vi trùng ăn vào tận tuỷ xương. (Cách đây 40 năm tôi đã nhìn thấy một người ăn mày ở chợ mắc bệnh này).
Vận dụng bài thuốc này của GS.TS Đỗ Tất Lợi, từ năm 1983 đến nay tôi đã dùng lá bàng để chữa khỏi bệnh cho các trường hợp sau:
1. Năm 1983 tôi đi thực tập 4 tháng ở Liên Xô, gửi con trai 2,5 tuổi cho chị gái, khi về thấy hai chân cháu bị lở tung, các mụn mủ có đường kính khoảng 1cm, Xanh mêtilen bôi đầy hai chân. Chị tôi nói: “Bế đi chữa khắp nơi rồi đấy, mà không khỏi”.
Nhớ lại bài thuốc của thầy Đỗ Tất Lợi, tôi đun nước lá bàng đổ vào chậu rồi cho cháu lúc lắc chân trong đó khoảng 20 phút. Thật kỳ lạ, khi nhấc chân cháu ra khỏi chậu nước lá bàng, tất cả các mụn ở chân không còn một tý mủ nào cả, mủ đã theo chất tananh của lá bàng ra ngoài chậu nước, để lại những lỗ rất sạch. Tôi bôi thuốc Cloroxit mỡ cho cháu, sau một tuần (mỗi ngày ngâm 1 lần cho đến khi các mụn se và khô), hai bàn chân cháu trắng trẻo như chưa từng bị mụn bao giờ.
2. Khoảng năm 1990 chú lái xe ở cơ quan tôi bị bỏng xăng cả hai chân từ dưới đấu gối tới bàn chân. Gặp chú trong bệnh viện, hai chân chú đầy mủ, đau đớn. Vợ chú lấy bông và ôxy già rửa vết thương nhưng không làm sao lấy được mủ ra. Tôi bảo cô ấy đi mua 2 xô to rồi mỗi ngày đun 2 xô nước lá bàng cho chú lúc lắc chân trong đó. Kết quả mủ tự ra, vết thương rất sạch, bôi thuốc bệnh viện cho, vết thương lành rất nhanh.
3. Năm 2006, bác hàng xóm trước cửa nhà tôi (bác đã 70 tuổi) bị lở hết trong miệng, lở lan cả trong họng, miệng lúc nào cũng há ra, mặt mũi nhăn nhó. Tôi sang chơi, thấy vậy liền bảo bác lấy lá bàng non và búp lá bàng đun 1 ca nước rồi súc miệng đi. Bác đã làm và chỉ súc có hai lần là khỏi. Truớc đó bác đã uống rất nhiều Vitamin C, PP, kháng sinh mà không kết quả.
4. Năm nay (2007), khi dịch lở mồm long móng bùng phát, chú Ph ở cơ quan nhà tôi có 6 con lợn gần 1 tạ, sắp xuất chuồng thì bị lở mồm long móng, tôi bảo với Ph, thú y họ làm gì cứ để họ làm, còn em thì đi lấy một ôm lá bàng về, lấy lá bánh tẻ và lá non thôi, lá già không có nhựa đâu, rồi đun một nồi to nước lá bàng, để âm ấm rồi cứ 3 tiếng một lần lấy ca múc đổ vào mõm và chân cho lợn, thể nào chúng cũng khỏi thôi. Nếu có nhiều nước lá bàng thì đổ vào chuồng để sát trùng càng tốt. Kết quả là sau một tuần, 6 con lợn đã khỏi và tôi được Ph biếu 1kg cá dìa (cá loại cao cấp ở Huế) do em nuôi ở trang trại.
5. Xung quanh nhà tôi có nhiều sinh viên trọ học, các em hay bị nhiệt (có những nốt lở ở trong niêm mạc miệng), ăn uống khó khăn. Tôi bày cho các em chữa bằng nước lá bàng, kết quả đều khỏi sau hai lần súc miệng. Em nào sợ vàng răng thì cô đặc nước lá bàng rồi lấy bông chấm vào chỗ vết lở thôi, kết quả đều khỏi hẳn sau một tuần.
6. Cách đây một tháng, thằng cháu 10 tháng tuổi gọi tôi là “bác” bị chàm má, tôi đi lấy lá bàng đun nước, mang đến bảo mẹ cháu rửa cho cháu, chỉ rửa có hai lần mà cháu đã khỏi.
7. Một thầy giáo ở trường tôi bị một vết ngứa ở bụng, dài 10cm, rộng 3cm, cứ ngứa và ra nhựa khó chịu, đã bôi 27 tuýp thuốc mỡ mà không khỏi, tôi đã đưa lá bàng cho thầy bảo đun nước rửa xem thế nào. Sau hai lần rửa bằng nước lá bàng, vết thương đã khỏi hoàn toàn.
Tóm lại, theo tôi, lá bàng chữa được bệnh “sâu quảng” thì chữa được tất cả các bệnh lở loét của người và gia súc (bệnh do vi trùng tấn công từ ngoài vào). Cụ thể là có thể dùng nước lá bàng dập tắt các bệnh sau trong vòng 1 tuần:
1. Bệnh lở mồm long móng của gia súc ( trâu, bò, lợn...)
2. Bệnh chân tay miệng ở trẻ em
3. Bệnh lở trong miệng của người mà ta hay gọi là nhiệt
4. Nước lá bàng là dung dịch ngâm rửa vết thương đặc hiệu nhất mà không gây độc
Trên đây là những việc mà tôi đã làm, và những suy nghĩ cá nhân của tôi khi vận dụng bài thuốc của thầy Đỗ Tất Lợi vào cuộc sống. Vô cùng biết ơn Thầy vì thầy đã cho tôi những bài thuốc quý.
Nếu tôi là người phụ trách về vấn đề chăn nuôi của đất nước, tôi sẽ hô hào trồng bàng ở mọi nơi có thể trồng được. Bàng cho ta bóng mát, cho ta thuốc quý, tuy nhiên bàng hay bị sâu róm, cho nên nếu trồng thì phải quan tâm chăm sóc chúng.
Nếu có đủ lá bàng thì dịch lở mồm long móng và bệnh chân tay miệng ở trẻ em chỉ là chuyện nhỏ.
Hướng dẫn dùng lá bàng chữa các bệnh lở ở người và súc vật
1. Lá bàng:
- Lấy lá non hoặc bánh tẻ; lá càng non càng nhiều nhựa nên mới tốt (không dùng lá già)
- Số lượng lá tùy vào vết thương nhiều hay ít. Ví dụ trường hợp lở miệng do nhiệt thì mỗi lần chỉ cần 1 nắm to.
2. Đun nước lá:
- Cho lá bàng vào nồi, đun sôi rồi để lửa nhỏ khoảng nửa giờ cho các chất trong lá ra hết vào nước.
- Bỏ lá. Lấy một nửa nước mới nấu cho vào phích để giữ nóng, chỗ nước còn lại chờ ấm thì ngâm hoặc dội vào vết thương.
3. Ngâm:
- Ngâm nước lá khi sờ tay vào nước thấy ấm.
- Nước nguội thì cho thêm chỗ nước đã giữ ấm trong phích vào dần dần để vết lở loét luôn được ngâm trong nước ấm.
- Sau khi ngâm thấm bằng khăn sạch hoặc để tự khô (tuyệt đối không rửa vết thương bằng nước khác) rồi bôi thuốc cần thiết tùy vào bệnh hoặc thuốc do bác sĩ kê đơn (ví dụ xanh metilen, thuốc mỡ kháng sinhv.v…).
- Trong những ngày ngâm nước lá bàng, vùng da đó sẽ bị vàng nhưng chớ lo lắng vì khi khỏi bệnh rồi thì theo thời gian da sẽ trở lại như bình thường.
-----------
Trên đây là bài báo của bạn tôi- nguyên giảng viên Trường Đại học Huế, là bản gốc (Bản đã biên tập và có thêm ý kiến chuyên gia đã được đăng ở Báo KH&ĐS số Tết Mậu Tý 2008 vừa qua). Tôi post lên để ai chưa biết có thể tham khảo. Gia đình ai có người bị lở, hoặc gia súc bị bệnh hãy thử áp dụng. Những kinh nghiệm dân gian như thế này nhiều khi giúp ta rất nhiều, nếu như ta may mắn rơi vào diện "Hợp thầy hợp thuốc".

Nguồn: https://thienluong05.blogspot.com/2008/03/la-bang-chua-benh.html?

Friday, August 16, 2019

KIẾN THỨC VỀ NHỮNG GIỚI LUẬT SỬ DỤNG TIỀN BẠC CHO TĂNG NI PHẬT GIÁO

KIẾN THỨC VỀ NHỮNG GIỚI LUẬT SỬ DỤNG TIỀN BẠC


Bài viết này được biên soạn bởi có nhiều Tỳ khưu hỏi tôi về những giới luật sử dụng tiền bạc được tìm thấy trong Vinaya (Tạng Luật). Bởi một tân Tỳ khưu ít có cơ hội được đọc những luận giảng mà tôi đã phiên dịch nhiều đề mục từ trong đó. Tôi hy vọng là trong bài viết này có đầy đủ kiến thức để giúp các Tỳ khưu hiểu rõ cách tuân thủ những giới luật này.

PHẦN 1. KIẾN THỨC DÀNH CHO NHỮNG CƯ SĨ NGOẠI HỘ
Quý vị có biết rằng Đức Phật không cho phép các tu sĩ và sa di nhận tiền bạc?
Chắc chắn là quý vị đã để ý thấy đại đa số các tu sĩ nhận và sử dụng tiền bạc. Đây là một trong những yếu tố sẽ dẫn tới việc Giáo Pháp của Đức Phật biến mất. Quý vị có thể góp phần để duy trì Phật Phápđược tồn tại bằng cách học tập cách cúng dường những vật dụng cần thiết được cho phép.
Trong mục này chúng ta sẽ liệt kê những điểm chính mà một cư sĩ nên ghi nhớ để một tu sĩ (Tỳ khưu) có thể có được những vật dụng cần thiết mà không vi phạm những giới luật của Vinaya.
1. Không bao giờ cúng dường tiền cho các Tỳ khưu, nhưng chỉ cúng dường những vật dụng cần thiếtđược cho phép chẳng hạn như các bộ y, thuốc men, sách, hay vé để đi lại. Nếu quý vị không chắc chắnvề những gì một Tỳ khưu cần có thì quý vị có thể hỏi họ, hoặc mời họ yêu cầu quý vị nếu họ cần thứ gì đó.
2. Một ngân quỹ dành để mua những vật dụng cần thiết có thể được để lại cho một kappiya (người phục vụ cho một Tỳ khưu) và ông ta nên được chỉ dẫn để mua và cúng dường những vật dụng cần thiết cho một Tỳ khưu, một nhóm Tỳ khưu, hay Tăng đoàn của một tu viện. Đừng hỏi Tỳ khưu: ‘Nên trao số tiền này cho ai?’ Nếu quý vị hỏi theo cách này thì một Tỳ khưu không được phép chỉ rõ một kappiya. Chỉ nên nói: ‘Thưa Sư, con muốn cúng dường những vật dụng cần thiết cho Sư. Ai là kappiya của Sư?’
3. Khi đã cho kappiya biết, quý vị thông báo cho Tỳ khưu bằng cách nói: ‘Con đã để lại một món tiền trị giá ‘x’ đô la cho kappiya của Sư. Khi Sư cần những vật dụng cần thiết Sư cứ hỏi họ và họ sẽ dâng cho Sư những vật dụng đó.’
4. Nếu quý vị đã biết ai là kappiya của Tỳ khưu thì khi đó quý vị chỉ cần để lại món tiền cho kappiya và thông báo cho Tỳ khưu như mục 3 ở trên.
Xin đọc kỹ những điều trên và lưu ý tới những gì được nói trong đó. Thủ tục ở trên được Đức Phật cho phép trong phần được gọi là ‘thừa nhận mendaka’. Nó được tìm thấy trong Bhesajja Khandhaka của Mahavagga (Đại Phẩm) trong Vinaya Pitaka (Tạng Luật) và đây là bản dịch của nó:
Các Tỳ khưu, có những người có niềm tin và lòng tôn kính và nếu họ giao phó tiền cho một kappiya và chỉ dẫn cho người này: ’Với số tiền này xin cúng dường những vật dụng cần thiết được cho phép cho vị Sư này,’ thì các Tỳ khưu, ta cho phép các ông nhận mọi vật dụng cần thiết được phép nhận và được mua bằng số tiền này, nhưng các Tỳ khưu, ta chẳng thể nào cho phép nhận hay tìm kiếm tiền bạc.
Cũng có một giới luật được gọi là Raja sikkhapada, giới luật thứ mười của Kathina Vagga (phẩm Dâng Y) trong mục Nissaggiya Pacittiya (Ni tát kỳ ba la dật đề pháp) của Patimokkha (Giới bổn Tỳ khưu) mang lại kiến thức thích đáng. Nó được dịch như sau:
Nếu một vị vua, một người bà la môn viên chức của nhà vua, hay một cư sĩ gởi người đưa tin (sứ giả) cùng một món tiền để mua một bộ y cho một Tỳ khưu và nói: ‘Sau khi mua một bộ y bằng số tiền này, hãy cúng dường nó cho một Tỳ khưu nào đó,’ và nếu sứ giả ấy tới tiếp xúc với vị Tỳ khưu và nói: ‘Thưa Sư, tiền để mua một bộ y đã được mang tới đây cho Sư. Xin hãy nhận tiền này để mua một bộ y.’ Khi ấy vị Tỳ khưu đó nói với sứ giả: ‘Chúng tôi không nhận tiền để mua một bộ y, chúng tôi nhận y nếu chúng được dâng cúng vào một thời điểm thích hợp và nếu chúng được cho phép.’
Khi ấy nếu sứ giả nói: ‘Thưa Sư, ai là người phục vụ cho Sư?’ Lúc đó nếu Tỳ khưu muốn có một bộ y thì ông chỉ rõ người phục vụ, người này là một thị giả của tu viện hay là một cư sĩ. Tỳ khưu nói: ‘Người đó phục vụ cho các Tỳ khưu.’
Nếu sau khi sứ giả đã chỉ dẫn cho người phục vụ, sứ giả tiếp xúc với Tỳ khưu và nói: ‘Con đã chỉ dẫncho người Sư chỉ định. Xin Sư tiếp xúc với người ấy vào một lúc thích hợp, ông ta sẽ dâng cho Sư một bộ y.’ Như vậy một Tỳ khưu muốn có một bộ y sau khi tiếp xúc với người phục vụ đó, có thể hỏi hay nhắc ông ta hai hay ba lần: ‘Tôi cần một bộ y.’ Nếu sau khi hỏi hay nhắc hai hay ba lần, Tỳ kheo nhận được bộ y thì điều đó thật tốt. Nếu Tỳ kheo không nhận được y thì ông có thể đứng yên lặng trong bốn, năm, hay sáu lần để nhận được bộ y đó. Nếu sau khi đứng yên lặng trong bốn, năm hay sáu lần ông nhận được bộ y thì điều đó thật tốt. Nếu ông phải nỗ lực hơn thế và nhận được bộ y thì đó là một vi phạm nissaggiya pacittiya.
Nếu Tỳ kheo không nhận được bộ y đó thì đích thân ông đi gặp hay gởi một sứ giả tới gặp người đã gởi tiền để mua y và nói: ‘Số tiền để mua một bộ y cho Tỳ khưu mà ông gởi đã không mang lại điều gì cho vị Tỳ khưu đó, hãy cố gắng thu hồi số tiền của ông để nó không bị thất lạc.’ Đây là điều nên làm.

PHẦN 2. SAI LẦM TRONG VIỆC NHẬN TIỀN
Trước khi nhập diệt, Đức Phật đã nói rằng nói sau khi Ngài nhập diệt, Tăng đoàn có thể - nếu họ muốn – hủy bỏ những giới luật thấp hay thứ yếu của Tạng Luật. Một vài Tỳ khưu đã trích dẫn điều này như một lý do để hỗ trợ cho việc họ nhận tiền, nhưng những trích dẫn tiếp theo từ các bộ Kinh cho thấy những giới luật ngăn cấm việc sử dụng tiền không phải là những giới luật thấp hay thứ yếu. Những giới luật sử dụng tiền bạc được những trích dẫn này đưa ra là nền tảng và cốt tủy cho sự thành tựu giác ngộ. Kinh Maniculaka: (Samyutta Nikaya, Salayatana Samyutta, Gamani Samyutta, Kinh số 10,):
Khi ấy Đức Thế Tôn đang cư trú ở Rajagaha (thành Vương Xá) tại một nơi gọi là Veluvana (Trúc Lâm Tịnh Xá), ở đó những con sóc và chim muông được nuôi dưỡng. Vào lúc đó, quần thần tụ họp trong cung điện của nhà vua và trong khi họ tụ họp cuộc đàm luận này đã phát sinh:
‘Đối với những tu sĩ là các trưởng tử của Thái tử dòng họ Thích Ca (Đức Phật) thì vàng, bạc và tiền được cho phép. Những tu sĩ là trưởng tử của Thái tử dòng Thích Ca ưng thuận vàng, bạc, và tiền. Những tu sĩ là trưởng tử của Thái tử dòng Thích Ca nhận vàng, bạc và tiền.’
Vào lúc đó vị trưởng làng là Maniculaka đang có mặt trong cuộc họp và ông nói với mọi người:
‘Thưa quý vị, đừng nói như thế. Vàng, bạc, và tiền không được cho phép đối với những tu sĩ là các trưởng tử của Thái tử dòng Thích Ca. Những tu sĩ trưởng tử của Thái tử dòng Thích Ca không ưng thuận vàng, bạc, hay tiền. Những tu sĩ trưởng tử của Thái tử dòng Thích Ca không nhận vàng, bạc, và tiền. Những tu sĩ trưởng tử của Thái tử dòng Thích Ca đã từ bỏ vàng, ngọc và không có tiền của.’
Nhưng trưởng làng Maniculaka không thể thuyết phục những người ấy.
Sau đó trưởng làng Maniculaka tới gặp Đức Thế Tôn, và sau khi tới gần Đức Thế tôn ông lễ lạy và ngồi sang một bên. Trong khi ngồi ở một bên trưởng làng Maniculaka nói với Đức Thế Tôn:
‘Thưa Thế Tôn, trong hoàng cung quần thần của nhà vua đang tụ họp… (Ông lập lại tất cả những điều đã được nói ở trên.)… Nhưng Thế Tôn, con không thể thuyết phục tập hội đó.
‘Thưa Thế tôn, do giải thích như thế con là người diễn đạt những điều Đức Thế Tôn nói hay con đã xuyên tạc Đức Thế Tôn? Con đã trả lời phù hợp với Giáo Pháp hay người diễn đạt phù hợp với Giáo Pháp này sẽ tìm ra lý do để chê trách con?’
(Đức Thế Tôn): ‘Thật vậy, trưởng làng, bằng cách giải thích như thế ông diễn đạt những gì ta nói và không xuyên tạc ta. Ông đã trả lời phù hợp với Giáo Pháp này và người diễn đạt phù hợp với Giáo Phápnày sẽ không tìm ra lý do để chê trách ông.
‘Trưởng làng, bởi vàng, bạc, và tiền không được cho phép đối với những tu sĩ là trưởng tử của thái tửdòng Thích Ca. Những tu sĩ là trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca không ưng thuận vàng, bạc, hay tiền. Những tu sĩ là trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca không nhận vàng, bạc, hay tiền. Những tu sĩ là trưởng tử của thái tử dòng Thích Ca đã từ bỏ vàng ngọc và không có tiền của.
‘Trưởng làng, đối với bất kỳ ai mà vàng, bạc, hay tiền được cho phép thì đối với họ năm loại lạc thú giác quan được cho phép. Đối với bất kỳ ai mà năm loại lạc thú giác quan được cho phép thì ông có thể chắc chắn: “Ông ta không có tính chất của một tu sĩ, ông ta không có tính chất của một trưởng tử của thái tửdòng Thích Ca.”
‘Trưởng làng, thật vậy ta nói điều này: “Bởi một tu sĩ cần cỏ, cỏ có thể được tìm kiếm. Bởi một tu sĩ cần gỗ, gỗ có thể được tìm kiếm. Bởi một tu sĩ cần một chiếc xe ngựa, xe ngựa có thể được tìm kiếm.” Nhưng, trưởng làng, ta cũng nói: “Chẳng thể nào được nhận hay tìm kiếm vàng, bạc, hay tiền của.”’
Trích dẫn kế tiếp được lấy từ phần cuối của Kinh Upakkilesa – Kinh Tùy phiền não (Anguttara Nikaya – Tăng Nhứt A Hàm, Tăng Chi Bộ Kinh - một bộ bốn cuốn, Rohitassa Vagga, Kinh số 10.) cho thấy việc nhận tiền dẫn tới việc liên tục tái sinh.
‘Bị ô nhiễm bởi tham, sân, và mù quáng vì vô minh, một vài tu sĩ và bà la môn ham thích những lạc thúgiác quan.
Những tu sĩ và bà la môn ngu xuẩn này uống rượu, dấn mình vào tình dục, nhận vàng, bạc và tiền, và có được những vật dụng cần thiết của họ bằng cách kiếm tiền tà vạy.
Đức Phật, đấng chói lọi như mặt trời, gọi tất cả những điều đó là những suy đồi.
Những tu sĩ và bà la môn bị mua chuộc bởi những suy đồi này thì bất tịnh, ô nhiễm, và không chói lọi hay sáng ngời.
Nhưng thay vì bối rối, mù quáng, làm nô lệ cho dục vọng, và tràn trề tham muốn, họ làm cho các nghĩa địa lớn rộng thêm bằng cách liên tục tái sinh.’
Trong những bộ Kinh này Đức Phật xem việc nhận tiền bạc cũng giống như sự đam mê các lạc thú giác quan. Trong Kinh Dhammacakkappavattana (Kinh Chuyển Pháp Luân) Đức Phật giảng dạy thật rõ ràng:
‘Các Tỳ khưu, người đã lên đường không nên thực hành hai cực đoan này. Hai cực đoan là gì? Đó là đam mê lạc thú giác quan, là cách sống thấp hèn, cách sống của những người dân làng, cách sống của những người tầm thường, cách sống của những người không giác ngộ và không mang lại lợi lạc; và tự hành xác đầy đau khổ, cách sống của những người không giác ngộ, và không mang lại lợi lạc.’
Kinh có dạy rằng ngay cả một cư sĩ là một anagami (A na hàm, người không trở lại, Bất Lai) cũng giữ mười giới luật một cách tự nhiên và không nhận hay sử dụng tiền bạc. Ví dụ như A na hàm Ghatikara không có ngọc quý, vàng, bạc, hay tiền của, kiếm sống bằng cách lấy đất bị xói mòn ở bờ sông và làm thành những cái bình. Ông đặt những cái bình này ở ven đường và những ai thích có thể để lại một số gạo hay thực phẩm thích hợp và lấy những cái bình. Bằng cách này Ghatikara nuôi sống bản thân và cha mẹ bị mù lòa của ông. (Xem Kinh Ghatikara trong Majjhima Nikaya – Kinh Trung A Hàm, Trung Bộ Kinh.)
Điều này cho thấy làm thế nào tiền bạc là một chướng ngại cho sự giác ngộ và một người thực sự giác ngộ không sử dụng tiền bạc ra sao. Những trích dẫn ở trên hoàn toàn minh chứng rằng việc các tu sĩnhận tiền không phải là một lỗi lầm nhỏ bé, và hành động đó có thể khiến cho một tu sĩ không thể đạtđược Niết bàn.

PHẦN 3. NHỮNG GIỚI LUẬT LIÊN QUAN TỚI TIỀN BẠC
Ý nghĩa của ‘tiền bạc’ trong tất cả những giới luật này là: Bất kỳ những gì được sử dụng như tiền tệ để mua và bán. Tiền bạc bao gồm những đồng xu, giấy bạc, séc, vàng, và bạc.
Vì sao một một tấm séc không được phép nhận? Một tấm séc không được phép nhận là bởi đôi khi nó có thể được đổi thành tiền và cũng bởi một tấm séc là một mệnh lệnh cho một ngân hàng để chi trả tiền cho người cầm tấm séc. Người ta thường nói những câu như: ‘Tỳ khưu Dhamminda, xin trả số tiền một trăm đô la cho người cầm séc.’ Do đó một tấm séc được viết ra cho một tu sĩ là một mệnh lệnh để chi trả tiền cho tu sĩ đó và nếu ông ta nhận séc thì điều đó có nghĩa là ông ta đang nhận số tiền đó tại ngân hàng. Cách nhận tiền thứ ba cũng tương tự như thế (xem ở dưới); ‘Ở một nơi nào đó, tiền đó là của tôi, tiền đó là để dành cho Sư.’ Vì thế một tấm séc là một cách thức biếu tặng tiền cho một tu sĩ và phải được từ chối.
Một tu sĩ viết một tấm séc vi phạm việc có sẵn tiền. Nếu trước hết ông ta nhận ngân quỹ thì đó là một vi phạm nissaggiya pacittiya hay nếu ngân quỹ được để lại cho một kappiya theo một cách thức đúng đắnthì đó là một vi phạm dukkata (tác ác) về việc sắp xếp sai lầm.
Một sa di được yêu cầu giữ mười giới luật trong đó điều thứ mười là tự chế không nhận vàng, bạc, hay tiền. Trong việc thực hành thì điều này có nghĩa là một samanera (sa di) giữ tất cả những giới luật có liên quan tới tiền bạc tương tự như cách thức một tu sĩ giữ giới.
Đối với các tu sĩ (Tỳ khưu) thì có bốn giới luật chính liên quan tới tiền bạc được tìm thấy trong vinaya (Tạng Luật):
1. Rupiya sikkhapada (Nissaggiya Pacittiya số 18)
2. Mendaka sikkhapada (Vinaya Mahavagga, Bhesajja Khandhaka)
3. Raja sikkhapada (Nissaggiya Pacittiya số 10)
4. Rupiya samvohara sikkhapada (Nissaggiya Pacittiya số 19.)
Các bản dịch số 2 và 3 đã được đưa ra ở trên và những bản dịch số 1 và 4 như sau:
1. Rupiya Sikkhapada
Bất kỳ Tỳ khưu nào tự mình nhận tiền hay là nguyên nhân khiến người khác nhận tiền cho mình, hay ưng thuận để tiền được đặt ở gần mình hay được giữ cho mình, Tỳ khưu đó đã vi phạm nissaggiya pacittiya.
4. Rupiya samvohara sikkhapada
Bất kỳ Tỳ khưu nào tham gia vào việc trao đổi bất kỳ thứ gì trong những hình thức khác nhau của vàng, bạc, hay tiền, Tỳ khưu đó đã vi phạm nissaggiya pacittiya.
Cần phải thấu suốt Rupiya sikkhapada bởi nếu giới luật này được giữ gìn một cách đúng đắn thì một tu sĩ sẽ không hiểu sai những giới luật khác liên quan tới tiền bạc. Một tu sĩ bị cấm làm ba điều:
1. Tự mình nhận tiền bạc.
2. Tạo nguyên nhân khiến người khác nhận tiền cho mình.
3. Ưng thuận để tiền được đặt ở gần mình hay được giữ cho mình.
Bản văn pali nguyên thủy định nghĩa ba điều này là:
1. sayam ganhati –Tỳ kheo đích thân nhận tiền.
2. annam gahapeti – ông ta làm cho người khác nhận tiền cho ông.
3. idam ayassa hotu ti upanikkhittam sadiyati – Họ nói: ‘Thưa Sư, món tiền này là dành cho Sư,’ và ông ta ưng thuận để họ đặt số tiền gần mình.
Luận giảng Kankhavitarani giảng nghĩa ba cách nhận tiền ở trên theo cách này:
1. Tỳ kheo tự mình nhận tiền khi tiền được cúng dường cho ông ta, hay đích thân ông giữ tiền khi ông tìm thấy nó ở một nơi nào đó và nó không thuộc về ai.
2. Trong những trường hợp tương tự này (khi tiền được cúng dường cho ông ta hay ông tìm thấy nó) ông ta khiến cho người khác nhận tiền (cho ông ta.)
3. Nếu cùng với số tiền trước sự hiện diện của vị Tỳ kheo, họ nói: ‘Tiền này là để dành cho Sư,’ hay khi tiền được giữ ở một nơi nào khác, họ nói: ‘Ở một nơi nào đó, tiền đó là của tôi, tiền đó là để dành cho Sư.’ Khi đó nếu họ truyền đạt về số tiền cúng dường đó chỉ bằng lời nói hay ra dấu bằng tay và tu sĩ đó không từ chối điều đó bằng cách ra dấu bằng tay hay bằng lời nói và âm thầm nhận nó thì điều đó được gọi là ‘ưng thuận.’
Nếu vị tu sĩ âm thầm ưng thuận và muốn nhận, nhưng bằng cách ra dấu hay bằng lời nói ông từ chối bằng cách nói: ‘Điều này không được cho phép,’ hay nếu ông ta không từ chối số tiền bằng cách ra dấu hay bằng lời nói nhưng với một tâm thức thuần tịnh ông không ưng thuận và nói: ‘Chúng tôi không được phép làm điều này,’ thì điều đó được cho phép (không được gọi là ưng thuận).
Với giới luật này Đức Phật đã cấm mọi cách thức nhận tiền có thể xảy ra. Nếu có ai cố gắng cúng dường tiền cho một tu sĩ theo cách nào đó trong ba cách này thì tu sĩ ấy không thể nói: ‘Người nào đó là kappiya của tôi. Hãy đưa tiền này cho kappiya của tôi. Hãy nhận tiền này cho tôi. Hãy để số tiền này ở đó.’ Tất cả những gì vị tu sĩ có thể làm là từ chối không nhận số tiền đó bằng cách nói: ‘Điều này không được cho phép.’ Từ chối là hành động duy nhất tu sĩ cần nhớ để hành động.
Luận giảng Samantapasadika (Thiện Kiến Luật chú) giải thích rằng không chỉ không được phép nhận tiền cho bản thân bằng một trong ba cách, tu sĩ cũng không được nhận tiền cho Tăng đoàn, cho một nhóm người, cho người khác, cho một ngôi chùa, một tu viện, hay cho bất kỳ điều gì khác. Nếu một tu sĩnhận tiền cho bản thân bằng một trong ba cách này thì đó là vi phạm nissaggiya pacittiya. Nếu ông nhận cho người khác như đã được đề cập thì đó là vi phạm dukkata (tác ác).
Có một quyển sách mới được biên soạn về Luật trong đó trình bày một quan điểm sai lầm. Quyển sách viết:
Ta được phép ‘tạo ra tiền được ký thác’ cho một tu viện, cho một ngân quỹ để mua sắm những vật dụngcần thiết, cho một lời kêu gọi cứu trợ (ví dụ ngân quỹ cho viện mồ côi), nhưng không dành cho cá nhântu sĩ. Ví dụ như một người hiến tặng cúng dường tiền cho ngôi chùa có thể được hướng dẫn: ‘Xin cho vào thùng cúng dường’, hay: ‘Xin gởi tiền vào số tài khoản này’, mặc dù một tu sĩ có thể không đích thân nhận số tiền như thế. Tăng đoàn, hay các viên chức được chỉ định có thể hướng dẫn việc sử dụng một ngân quỹ như thế, thậm chí nói: ‘Hãy mua cái này,’ hay ‘Hãy mua cái kia.’
Ở trên ta đã được giảng dạy rằng không được phép tạo nguyên nhân để được nhận hay được ký thác tiền bạc cho một ngôi chùa hay cho bất kỳ điều gì khác. Vì thế quan điểm này không phù hợp với Tạng Luật.
Luận giảng minh họa những nguyên lý được bao hàm trong những giới luật này bằng một câu chuyệnhư cấu. Nó đối phó với một tình huống trong đó người hiến tặng không biết việc tu sĩ từ chối và chỉ đơn giản để lại tiền trước mặt tu sĩ và ra đi. Luận giảng chỉ rõ:
1. Nếu một tu sĩ nói: ‘Hãy giữ nó ở đây,’ thì đó là vi phạm nissaggiya đối với việc nhận tiền.
2. Nếu tu sĩ muốn có mua món đồ gì đó và nói: ‘Hãy lấy cái này,’ thì đó là việc sắp xếp theo một cách thế không được cho phép. (Nếu ngân quỹ được cho phép).
3. Giới luật này giống như đi trên một sợi giây làm xiếc bằng một cái lưỡi nhỏ xíu, tất nhiên là sẽ đi tới chỗ vi phạm giới luật.
Câu chuyện viết:
Giả sử có một người đặt một trăm hay một ngàn đồng xu dưới chân một Tỳ khưu và nói: ‘Tiền này dành cho Sư,’ vị Tỳ khưu từ chối và nói: ‘Điều này không được cho phép,’ nhưng cư sĩ đáp: ‘Con đã biếu nó cho Sư,’ rồi ra đi. Sau đó nếu có cư sĩ khác đến và hỏi: ‘Thưa Sư, tiền gì đây?’ Khi đó cư sĩ này có thể được nghe thuật lại những gì cư sĩ thứ nhất và vị tu sĩ đã nói. Nếu cư sĩ đó nói: ‘Thưa Sư, hãy để con cất giữ nó cho an toàn, xin chỉ cho con một nơi an toàn.’ Sau khi leo lên một ngôi nhà bảy tầng vị tu sĩcó thể giải thích: ‘Nơi này an toàn,’ nhưng ông ta không nên nói: ‘Hãy giữ nó ở đây.’ Bằng cách nói như thế này việc nhận tiền sẽ trở thành được cho phép hay không được cho phép.
(Luận giảng phụ Vimativinodana nói: Nếu tu sĩ nói: ‘Hãy giữ nó ở đây,’ đó là hành động nhận tiền và là vi phạm nissaggiya pacittiya.) Sau đó ông ta có thể đóng cửa lại và bảo vệ nó. Nếu sau này một người bán hàng tới cùng với hàng hóa chẳng hạn như một cái chén hay những bộ y và nói: ‘Sư hãy lấy cái này,’ khi đó Tỳ khưu có thể nói: ‘Cư sĩ, tôi cần cái này và có phương tiện để sở hữu nó nhưng hiện giờ không có kappiya ở đây.’ Và nếu người bán hàng nói: ‘Tôi sẽ là kappiya của Sư, xin mở cửa và đưa tiền cho tôi.’ Sau khi mở cửa Tỳ khưu nên nói: ‘Tiền được để trong phòng này.’ Ông ta không nên nói: ‘Hãy cầm số tiền này.’ Như thế tùy thuộc vào những gì được nói ra việc nhận tiền trở thành được cho phép hay không được cho phép. Khi ấy nếu người bán hàng đó nhận những đồng tiền và đưa các vật dụng cần thiết được phép nhận cho Tỳ khưu thì điều đó được cho phép. Nếu ông ta lấy quá nhiều đồng xu thì Tỳ khưu đó nên nói: ‘Tôi sẽ không lấy hàng của ông, hãy đi đi!’
2. Mendaka sikkhapada
Một bản dịch của bản văn này đã được đưa ra ở trên. Không có thông tin riêng biệt về việc thừa nhậnnày trong các luận giảng. Mọi điều cần nói về nó được giải thích trong luận giảng cho Raja sikkhapada. Giòng cuối cùng đáng ghi nhớ của thừa nhận này là một tóm tắt của tất cả những quy tắc liên quan tới tiền bạc: ‘Các Tỳ khưu, ta chẳng thể nào cho phép nhận hay tìm kiếm tiền bạc.’
3. Raja sikkhapada
Một bản dịch của bản văn này đã được đưa ra ở trên. Luận giảng cho giới luật này đưa ra rất nhiều thông tin giúp cho một tu sĩ biết cách nói và làm trong những tình huống khác nhau. Dưới đây là một vài bản dịch của những trích dẫn được chọn lọc từ những luận giảng cùng với một vài giải thích xa rộng hơn của tác giả.
Những chọn lọc từ Luận giảng Kankhavitarani
1. ‘Khi đã mua một bộ y bằng số tiền này, xin hãy cúng dường nó cho một Tỳ khưu nào đó,’ được nói (trong giới luật) để cho thấy tiền được gởi với ý hướng thanh tịnh. Nếu người hiến tặng gởi sứ giả và nói: ‘Xin cúng số tiền này cho một Tỳ khưu nào đó,’ khi ấy số tiền đó được gởi một cách bất tịnh bởi có liên quan tới tiền không được phép nhận. Trong trường hợp đó một Tỳ khưu đừng bao giờ nên chỉ rõ một người là kappiya.
Nếu người hiến tặng đích thân đến và nói: ‘Con cúng dường số tiền này cho Sư,’ thì một Tỳ khưu không thể chỉ rõ một kappiya. Nếu một Tỳ khưu nói: ‘Người nào đó là kappiya của tôi,’ vào thời điểm này sẽ khiến cho tiền được nhận cho Tỳ khưu và là một vi phạm nissaggiya pacittiya. Tất cả những gì một Tỳ khưu có thể làm trong trường hợp này là từ chối nhận món tiền.
2. ‘Chúng tôi không nhận tiền để mua một bộ y, chúng tôi nhận y nếu chúng được cúng dường vào một thời điểm thích hợp và nếu chúng được cho phép,’ được nói ra để cho thấy tiền phải được từ chối, mặc dù ngân quỹ để mua một bộ y được gởi một cách thanh tịnh, lời nói của sứ giả không được cho phép. (‘Xin nhận số tiền này để mua một bộ y.’)
Một ngân quỹ gồm vàng, bạc, đồng xu, hay tiền là một nguyên nhân cho một vi phạm nissaggiya pacittiya. Ngọc, ngọc trai, hồng ngọc, đá quý, bảy loại hạt, những nô lệ nữ, nô lệ nam, ruộng lúa, những cánh đồng canh tác, vườn cây ăn quả, hay vườn hoa được gọi là những vật là nguyên nhân cho một vi phạm dukkata (tác ác). Tu sĩ không được phép nhận bất kỳ món gì trong những loại này cho bản thân, cho một ngôi chùa, Tăng đoàn, một nhóm người, hay cho người khác.
Ở đây và ở nơi khác trong toàn bộ các luận giảng, ‘nhận’ có nghĩa là nhận bằng cách nào đó trong ba cách được đề cập tới trong Rupiya sikkhapada.
3. Nếu sứ giả hỏi trong một cách thế được cho phép: ‘Thưa Sư, có ai phục vụ cho Sư không?’ Khi ấy tu sĩ được phép chỉ ra người nào đó. Tuy nhiên, nếu sứ giả hỏi: ‘Ai sẽ nhận tiền này?’ hay ‘Con nên đưa tiền này cho ai?’ thì tu sĩ không được phép chỉ ra ai là một kappiya.
Nếu Tỳ khưu chỉ ra một kappiya khi cư sĩ hỏi một cách sai lạc thì điều đó sẽ là một vi phạm nissaggiya pacittiya vì làm cho người khác nhận tiền cho vị Tỳ khưu.
4. ‘Người nào đó phục vụ cho các Tỳ khưu,’ được nói ra để cho thấy cách nói được cho phép đối với một Tỳ khưu. Tỳ khưu chỉ có thể nói điều đó theo cách này và không nên nói: ‘Hãy đưa tiền cho ông ta. Ông ta sẽ giữ nó. Ông ta sẽ đổi nó. Ông ta sẽ mua nó.’
Nếu cư sĩ hỏi theo cách thế được cho phép thì Tỳ khưu chỉ có thể chỉ ra một kappiya theo cách thế được cho phép. Nếu Tỳ khưu chỉ ra theo cách thế sai lầm thì đó sẽ là một vi phạm nissaggiya pacittiya.
5. ‘Thưa Sư, người mà Sư chỉ ra đó đã được con chỉ dẫn. Xin tiếp xúc với ông ta vào một thời điểm thích hợp và ông ta sẽ dâng cúng Sư một bộ y,’ có nghĩa là: người đó đã được con ra lệnh khi Sư cần một bộ y thì người đó sẽ dâng y cho Sư. Nếu sứ giả thực sự nói điều này thì sau khi được thông tin như thế, tu sĩ được phép yêu cầu một bộ y. Tu sĩ không được phép hỏi nếu sứ giả chỉ đơn thuần đi tới và trao cho một kappiya ngân quỹ để mua một bộ y.
Sẽ là một cách kiếm sống tà vạy khi yêu cầu một bộ y từ người không đưa ra một lời mời để hỏi.
6. Nếu Tỳ khưu nói: ‘Đây là người phục vụ cho các Tỳ khưu,’ và chỉ rõ một người đang hiện diện vào lúc đó. Khi ấy, trước sự hiện diện của Tỳ khưu, nếu sứ giả trao cho người ấy ngân quỹ và nói: ‘Sau khi mua một bộ y cho Thera (Thượng Tọa, Trưởng Lão) này, xin hãy dâng y cho Sư,’ và sau đó ra đi. Như vậy thậm chí không được nói: ‘… đã được tôi chỉ dẫn…’ thì Tỳ khưu được cho phép yêu cầu một bộ y.
Nếu khi sứ giả sắp ra đi, ông ta nói với Tỳ khưu: ‘Con sẽ trao tiền này tận tay ông ta, Sư hãy nhận một bộ y,’ và sau đó nếu người ấy ra đi hay nếu ông ta gởi người khác tới để thông báo cho Tỳ khưu thì trong cả hai trường hợp này Tỳ khưu được phép yêu cầu một bộ y. Mặc dù giới luật này chỉ đề cập tới một ‘sứ giả’ nhưng nếu đích thân người hiến tặng mang số tiền tới thì thủ tục cũng tương tự và những khác biệt cũng tương tự như được đề cập ở trên.
7. ‘Tôi cần một bộ y,’ cho thấy cách thế đúng đắn để yêu cầu một bộ y. Tỳ khưu được phép nói điều gì đó có ý nghĩa tương tự khi sử dụng bất kỳ ngôn ngữ nào. Không bao giờ được phép nói: ‘Hãy cho tôi một bộ y, Hãy mang cho tôi một bộ y, Hãy sắm cho tôi một bộ y, Hãy mua cho tôi một bộ y.’
Những Chọn lọc từ Samantapasadika (Thiện Kiến Luật chú)
1. Không chỉ không được phép nhận tiền cho bản thân, mà cũng không được phép nhận tiền nếu số tiền đó do người hiến tặng mang đến và họ nói: ‘Con dâng cúng số tiền này cho Tăng đoàn. Xin làm một vườn hoa, một ngôi chùa, phòng ăn hay bất kỳ thứ gì khác.’ Bất kỳ ai nhận tiền cho người nào khác sẽ vi phạm dukkata theo luận giảng Mahapaccariya. (Một luận giảng cổ xưa không còn hiện hữu.)
2. Nếu một Tỳ khưu từ chối không nhận tiền và nói: ‘Các Tỳ khưu không được phép nhận tiền này.’ Khi ấy nếu người hiến tặng nói: ‘Con sẽ trao số tiền này tận tay một người thợ mộc hay công nhân. Sư chỉ trông coi để công việc của họ được thực hiện một cách đúng đắn.’ Sau đó nếu ông ta giao tiền cho những người thợ và ra đi thì điều đó được cho phép. Nếu ông ta nói: ‘Con sẽ trao số tiền này tận tay người của con hay chính con sẽ giữ số tiền này. Sư cần giao cho ai thì xin bảo người đó tới gặp con để nhận nó.’ Điều này cũng được cho phép.
3. Nếu không hỏi ý kiến Tăng đoàn, một nhóm người, hay một cá nhân, họ chỉ nói: ‘Chúng con biếu số vàng, bạc, hay tiền này cho chùa, cho tu viện, cho công trình mới,’ thì không được phép từ chối điều đó. Tỳ khưu nên thông báo cho kappiya của ông và nói: ‘Đây là điều họ đã nói.’ Tuy nhiên nếu họ nói: ‘Chúng con cúng dường tiền này vì ngôi chùa, tu viện, công trình mới, xin Sư nhận và giữ nó.’ Khi ấy Tỳ khưu phải từ chối và nói: ‘Chúng tôi không được phép nhận số tiền này.’
Trong trường hợp thứ nhất Tỳ khưu không được từ chối bởi ông không bị yêu cầu nhận số tiền. Ông không thể làm điều gì ngoại trừ thuật lại cho kappiya của ông những gì những người hiến tặng nói. Ông không thể nhận số tiền đó.
4. Nếu một người mang nhiều vàng, bạc, hay tiền và nói: ‘Thưa Sư, con cúng dường món này cho Tăng đoàn, xin sử dụng bốn vật dụng cần thiết có được từ món cúng dường này.’ Khi ấy nếu Tăng đoàn nhận món cúng dường đó thì việc chấp nhận ấy là một vi phạm và việc sử dụng những vật dụng cần thiết có được từ món cúng dường đó cũng là một vi phạm.
Nếu vào lúc Tăng đoàn được cúng dường, một Tỳ khưu từ chối không nhận và nói: ‘Điều này không được cho phép.’ Những cư sĩ ra đi và nói: ‘Nếu điều này không được cho phép thì con sẽ giữ nó.’ Khi ấy những Tỳ khưu khác không nên nói với vị Tỳ khưu đó: ‘Ông đã gây trở ngại cho Tăng đoàn,’ hay điều gì khác đối với kết quả đó. Đối với bất kỳ ai nói một điều như thế với vị Tỳ kheo, người ấy sẽ mắc vào mộtvi phạm (dukkata) bởi bằng cách từ chối món cúng dường vị Tỳ khưu đơn độc đó đã tránh cho nhiều người không bị vi phạm.
Nếu những Tỳ khưu đó từ chối số tiền và nói: ‘Điều này không được cho phép,’ và khi ấy những cư sĩnói: ‘Con sẽ trao số tiền này cho một kappiya hay cho người của con hay đích thân con giữ nó. Sư chỉ nhận và sử dụng những vật dụng cần thiết có được từ số tiền này.’ Điều đó được cho phép.
Luận giảng giải thích rằng không phải kappiya nào cũng cần thực hành những phương pháp được chỉ bày trong giới luật này. Luận giảng giải thích rằng có mười loại và hai hạng kappiya. Các chi tiết như sau:
5. Nếu người nào đó gởi một sứ giả cùng một số tiền để mua một bộ y cho một Tỳ khưu và sau khi tiếp xúc với Tỳ khưu, sứ giả đó nói: ‘Thưa Sư, một người nào đó đã gởi số tiền này để mua một chiếc y cho Sư. Xin nhận số tiền này.’ Khi ấy vị Tỳ khưu phải từ chối và nói: ‘Điều này không được cho phép.’ Nếu sau đó sứ giả hỏi: ‘Thưa Sư, Sư có người phục vụ không?’ Khi ấy nếu có một người như thế thì hoặc người ấy sẽ được một cư sĩ chỉ dẫn: ‘Ông phục vụ cho những Tỳ khưu này,’ hoặc nếu ông ta chỉ là một người bạn hay người cộng tác của Tỳ khưu đó và phục vụ cho Tỳ khưu. Nếu vào lúc đó người ấy đang ngồi trước sự hiện diện của Tỳ khưu đó và Tỳ khưu chỉ rõ ông ta và nói: ‘Đây là người phục vụ cho các Tỳ khưu.’ Khi ấy nếu sứ giả trao ngân quỹ tận tay người đó và nói: ‘Sau khi mua một bộ y hãy cúng nó cho Thera (Thượng Tọa, Trưởng Lão) này,’ và sau đó ông ta ra đi. Như vậy kappiya này được gọi là được Tỳ khưu chỉ rõ trước sự hiện diện của người ấy (1).
Tuy nhiên nếu lúc đó người ấy không ngồi trước sự hiện diện của vị Tỳ khưu và vị Tỳ khưu chỉ rõ người đó và nói: ‘Trong làng nào đó có một người tên như thế phục vụ cho các Tỳ khưu,’ Khi ấy nếu sứ giả đi tới làng đó mang ngân quỹ trao tận tay người ấy và nói: ‘‘Sau khi mua một bộ y hãy cúng nó cho Thera này,’ và sau đó trở về gặp vị Tỳ khưu và thông báo cho Tỳ khưu điều này trước khi ra đi. Như vậy kappiya này được gọi là được Tỳ khưu chỉ rõ mà không có sự hiện diện của người ấy (2).
Tuy nhiên nếu sứ giả không đích thân trở lại thông báo cho Tỳ khưu mà gởi một người khác tới thông báo và nói: ‘Thưa Sư, chúng con đã trao cho người đó ngân quỹ để mua một bộ y. Xin Sư nhận một bộ y.’ Như vậy kappiya này được gọi là loại thứ hai được Tỳ khưu chỉ rõ mà không có sự hiện diện của người ấy (3).
Tuy nhiên nếu sứ giả không gởi người nào đó giống như thế mà thay vào đó ông ta nói với Tỳ khưu trước khi đi: ‘Thưa Sư, con sẽ gởi tiền cho người đó để mua một bộ y, xin Sư nhận một bộ y.’ Như vậy kappiya này là loại thứ ba được Tỳ khưu chỉ rõ mà không có sự hiện diện của người ấy (4).
Như thế có bốn kappiya được Tỳ khưu chỉ rõ, một người được Tỳ khưu chỉ rõ trước sự hiện diện của người ấy và ba người được Tỳ khưu chỉ rõ mà không có sự hiện diện của họ. Trong tất cả bốn trường hợp này một Tỳ khưu nên thực hành đúng y như được nói trong giới luật của Raja sikkhapada.
Nếu một sứ giả hỏi Tỳ khưu cùng cách thức được nói ở trên và nếu Tỳ khưu hoặc không có một kappiya hoặc không muốn sắp xếp như thế, Tỳ khưu nên nói: ‘Tôi không có một kappiya.’ Nếu vào lúc đó một người đi tới và sứ giả trao ngân quỹ tận tay người ấy và ra đi sau khi nói: ‘Xin nhận một bộ y từ người này.’ Như vậy kappiya này được gọi là được sứ giả chỉ rõ trước sự hiện diện của Tỳ khưu (1).
Trong trường hợp khác đích thân sứ giả vào làng và chọn một người rồi trao ngân quỹ tận tay người đó. Như vậy cũng giống như những cách thức đã được nói ở trên, hoặc người đó quay lại và thông báo cho Tỳ khưu, gởi người khác tới thông báo cho Tỳ khưu, hay nói trước khi đi: ‘Con sẽ trao ngân quỹ này tận tay người tên gì đó, xin Sư nhận một chiếc y,’ và sau đó ra đi. Đây là ba trường hợp được gọi là kappiya được sứ giả chỉ rõ mà không có sự hiện diện của Tỳ khưu (2,3 &4).
Cả bốn trường hợp này được gọi là các kapiya được sứ giả chỉ rõ. Trong bốn trường hợp này một Tỳ khưu nên thực hành hoàn toàn giống như cách được nói trong thừa nhận Menkada, trong đó nói:
Các Tỳ khưu, có những người có niềm tin và lòng tôn kính và nếu họ ký thác tiền bạc cho một kappiya, chỉ dẫn cho người này và nói: ‘Với số tiền này xin dâng những vật dụng cần thiết được cho phép cho vị Sư này,’ thì các Tỳ khưu, ta cho phép các ông nhận mọi vật dụng cần thiết được cho phép có được từ số tiền này, nhưng các Tỳ khưu, ta chẳng thể nào cho phép nhận hay tìm kiếm tiền bạc.’ Theo sự thừa nhận này một Tỳ khưu có thể yêu cầu vô số lần. Một Tỳ khưu, người không đồng ý nhận ngân quỹ, cho dù ông đã yêu cầu hay đứng một ngàn lần thì được phép nhận những vật dụng cần thiết được cho phép. Nếu họ không biếu tặng vật gì, sau đó cử một người khác làm kappiya cho vị Tỳ kheo thì ông ta nên làm cho người đó mang lại những vật dụng cần thiết.* Nếu vị Tỳ khưu muốn thì ông có thể thông báo cho người hiến tặng lúc ban đầu, nhưng ông không cần phải làm thế nếu ông không muốn.
* Một Tỳ khưu không được phép làm cho tiền di chuyển từ một kappiya sang một người khác. Ông ta nên nói với kappiya mới: ‘Có người đã để lại một số tiền để mua môt bộ y cùng với … và tôi cần một bộ y.’
5. (tiếp theo) Nếu tỳ khưu được sứ giả hỏi theo cùng cách thức đã nói ở trên và Tỳ khưu trả lời: ‘Tôi không có một kappiya.’ Lúc ấy nếu có một người hiện diện nghe câu nói đó và nói: ‘Xin mang tiền lại đây, tôi sẽ mua một bộ y cho Sư và dâng nó cho Sư.’ Khi ấy nếu sứ giả nói: ‘Tốt quá, xin hãy dâng y cho Sư,’ và sau khi trao ngân quỹ tận tay người đó và không thông báo cho Tỳ khưu, người ấy ra đi (không nói với Tỳ khưu là Tỳ khưu nhận một bộ y từ người đó). Điều này được gọi là trở thành một kappiya nhờ miệng của mình.
Trong trường hợp khác, nếu sứ giả chỉ đơn giản trao ngân quỹ cho người nào đó và nói với ông ta: ‘Ông dâng một bộ y cho Sư,’ và sau đó ra đi. Như vậy điều này được gọi là trở thành một kappiya nhờ miệng của người khác.
Hai loại sau cùng này được gọi là những kappiya không được chỉ rõ. Trong những trường hợp này một Tỳ khưu nên thực hành theo một cách thế tương tự như thể những kappiya ấy không phải là những người thân thuộc hay không đưa ra lời mời thỉnh để yêu cầu những vật dụng cần thiết. Nếu những người ấy tự nguyện mang một bộ y và cúng dường nó thì Tỳ khưu có thể nhận y. Nếu họ không làm như thế thì Tỳ khưu không nên nói gì hết.
Mặc dù trong giới luật chỉ có một sứ giả giữ ngân quỹ, nếu người hiến tặng đích thân mang ngân quỹ hay đó là ngân quỹ để mua thực phẩm hay thứ gì khác thì thủ tục cũng tương tự như ở trên.
4. Rupiya samvohara sikkhapada
Cho dù Tỳ khưu tham gia vào điều gì trong việc trao đổi những hình thức khác nhau của vàng, bạc, hay tiền thì Tỳ khưu cũng mắc vào một vi phạm nissaggiya pacittiya.
Rupiya sikkhapada ngăn cấm việc nhận vàng, bạc, hay tiền. Giới luật này cấm việc trao đổi vàng, bạc, và tiền để lấy những thứ khác làm bằng vàng hay bạc (chẳng hạn như vật trang sức), hay để lấy những tài sản được cho phép (chẳng hạn như những bộ y, bát, hay những vật dụng cần thiết khác). Giới luậtnày cũng ngăn cấm việc trao đổi những vật dụng cần thiết được cho phép, hay những vật làm bằng vàng hay bạc, để lấy vàng, bạc, hay tiền.
Luận giảng Samantapasadika (Thiện Kiến Luận chú) đưa ra một giải thích bằng một ví dụ được gọi là ‘bốn cái chén không được phép nhận.’ Bản văn viết:
Để chỉ rõ lỗi lầm nghiêm trọng trong việc vi phạm giới luật này, việc bốn cái chén không được phép nhận được giải thích như sau: Nếu một Tỳ khưu sau khi nhận tiền, mua quặng sắt, nấu chảy thành sắt và làm thành một cái chén khất thực (bình bát). Như vậy cái chén này được gọi là một ‘cái chén vĩ đại khôngđược phép nhận’ do bởi chẳng có cách nào làm cho nó được nhận. Nếu cái chén bị đập vỡ và được làm thành những cái tách thì chúng cũng không được phép nhận. Nếu nó được làm thành một con dao thì những tooth-wood (a) được làm bằng con dao đó không được phép nhận. Nếu nó được làm thành những lưỡi câu để câu cá thì ngay cả cá bị vướng vào những lưỡi câu đó cũng không được phép nhận. Nếu người ấy nung nóng lưỡi dao làm từ cái chén đó và nhúng nó vào nước hay sữa và làm nước hay sữa ấm lên thì nước hay sữa đó cũng không được phép nhận.
Nếu một Tỳ khưu sau khi nhận tiền, mua một cái chén được làm sẵn thì cái chén đó không được phép nhận. Trong luận giảng Mahapaccariya có nói: ‘Bất kỳ Tỳ khưu, Tỳ khưu ni, samanera (Sa di), samaneri (Sa di ni), hay sikkhamana (Thức xoa ma na, Học nữ) nào cũng không được phép nhận cái chén đó.’ Cũng có thể làm cho cái chén này lại được phép nhận. Nếu vị Tỳ khưu trả cái chén cho nơi ông đã mua, lấy lại tiền, và trả lại cái chén thì cái chén trở thành được phép nhận. Như vậy nếu ta có cái chén bằng một cách thế được cho phép thì ta được phép sử dụng nó.
Nếu một Tỳ khưu sau khi nhận tiền đi tới một tiệm bán chén bát cùng với kappiya của ông và khi nhìn thấy một cái chén ông nói: ‘Tôi thích cái này,’ và người kappiya đó đưa tiền và thỏa thuận với người chủ tiệm để mua chén. Khi ấy mặc dù cái chén đó được sở hữu bằng lời nói được cho phép nhưng nó vẫn không được phép nhận do bởi việc nhận tiền lúc ban đầu. Không có sự khác biệt với thí dụ thứ hai. Vì sao các Tỳ khưu khác cũng không được phép nhận những cái chén? Đó là bởi tiền lúc ban đầu không được thu hồi (theo đúng Luật ở giữa Tăng đoàn).
Nếu một Tỳ khưu không nhận tiền và sau khi một kappiya được gởi tới và được chỉ dẫn, người này nói: ‘Sau khi mua một cái chén xin cúng nó cho Thera.’ Sau đó nếu kappiya và Tỳ khưu cùng đi tới tiệm bán chén bát và khi nhìn thấy cái chén Tỳ khưu nói: ‘Hãy nhận số tiền này và đưa cho tôi cái chén,’ và như thế sau khi làm cho tiền được đưa ra vị Tỳ khưu nhận cái chén. Như vậy chỉ một mình Tỳ khưu đó không được phép nhận cái chén bởi ông đã sắp xếp việc mua bán một cách sai lầm. Những Tỳ khưu khác thì được phép nhận bởi số tiền đã không được nhận ngay từ đầu.
Thầy giáo của Mahasuma Thera được gọi là Anuruddha Thera và ông có một cái chén như thế, nó đựng đầy sữa trâu và ông tặng nó cho Tăng đoàn. Đệ tử của Tipitaka Culanaga Thera cũng có một cái chén như thế, và vì thế Thera làm cái chén được rót đầy sữa trâu và tặng cho Tăng đoàn. Đây là bốn cái chén không được phép nhận.
Nếu một Tỳ khưu không nhận tiền và sau khi một kappiya được gởi tới và được chỉ dẫn, người này nói: ‘‘Sau khi mua một cái chén xin cúng nó cho Thera,’ khi ấy nếu kappiya và Tỳ khưu cùng đi tới tiệm bán chén bát và sau khi nhìn thấy cái chén Tỳ khưu nói: ‘Tôi thích cái này,‘ hay ‘Tôi sẽ lấy cái này,’ và kappiya đưa tiền và thỏa thuận việc mua bán với chủ tiệm thì cái chén đó hoàn toàn được phép nhận và ngay cả Đức Phật cũng sử dụng nó.

PHẦN 4. VIỆC BỊ THU HỒI VÀ SÁM HỐI
Nếu một Tỳ khưu đã nhận vàng, bạc, hay tiền thì trước tiên, theo những giới luật của Tạng Luật, ngay giữa Tăng đoàn ông phải bị thu hồi những vật dụng không được phép nhận và sau đó sám hối vi phạmđó. Nếu ông đã mua thứ gì đó với vàng, bạc, hay tiền thì những món đồ đã được mua đó cũng phải bị thu hồi và sau đó phải sám hối việc vi phạm. Nếu vào lúc xảy ra việc thu hồi một cư sĩ có mặt ở đó thì được phép giải thích cho người ấy những gì đã xảy ra. Nếu cư sĩ đó nhận số tiền và nói: ‘Con nên mua cái gì với số tiền này?’ Khi ấy Tỳ khưu có thể nói: ‘Món nào đó được phép nhận (sữa trâu, bơ, v.v..) Ông ta không thể nói: ‘Hãy mua món nào đó.’ Như vậy nếu cư sĩ mua món nào đó và dâng nó cho Tăng đoàn thì tất cả các Tỳ khưu, ngoại trừ người đã nhận số tiền đó, có thể sử dụng nó. Nếu không có cư sĩhiện diện ở đó thì Tăng đoàn có thể chỉ định một Tỳ khưu nhận tiền và ném nó đi.
Đức Phật đã dạy rằng chẳng có cách nào để một Tỳ khưu có thể được lợi lạc sau khi nhận tiền hay mua những đồ vật bằng số tiền đó. Nhưng nếu tiền được thu hồi phù hợp với những giới luật của Tạng Luật thì những người khác trong Tăng đoàn có thể được lợi lạc. Nếu những vật phẩm và tiền không bị thu hồithì không có Tỳ khưu hay samanera (Sa di) nào có thể sử dụng những món đó.
Nếu một Tỳ khưu không thu hồi hay ném bỏ tiền hay những món đồ được mua bằng tiền đó thì cho dù ông ta sám hối bao nhiêu lần chăng nữa ông vẫn được coi là đã vi phạm. Như vậy nếu ông ta nghe trì tụng Giới bổn Tỳ khưu (Giới bổn Ba-la-đề-mộc-xoa) hay tuyên bố là mình trong sạch thì ông ta cũng vi phạm việc nói dối có ý thức. Giới bổn Tỳ khưu nói:
‘Bất kỳ Tỳ khưu nào được chất vấn ba lần, biết rằng mình vi phạm nhưng vẫn không bộc lộ điều đó thì đó là một người nói dối có ý thức. Các Sư, Đức Thế Tôn đã dạy rằng nói dối có ý thức là một chướng ngại cho việc thành tựu.’
PHẦN 5. NHỮNG PHƯƠNG PHÁP TÂN TIẾN
Có nhiều phương pháp mà hiện nay các tu sĩ dùng để thâu thập và sử dụng những ngân quỹ to lớn. Nếu quý vị là một tu sĩ quý vị sẽ trải qua những phương pháp khác nhau ở những tu viện khác nhau. Hầu hết những phương pháp này không tuân theo những thủ tục được sắp xếp trong những bản văn. Cách tốt nhất là tránh những thực hành đáng ngờ và không rõ ràng và hãy thực hành phù hợp với những thủ tục (trình tự) được đưa ra trong các bản văn.
Chẳng hạn như các bản văn không chỉ cho một tu sĩ cách dạy cho một người khi họ nỗ lực cúng dườngtiền, chỉ bày cho họ cách cúng dường những vật dụng cần thiết được cho phép. Các bản văn chỉ dẫnrằng nếu tiền được mang với ý hướng bất tịnh nhằm cúng dường cho tu sĩ thì tu sĩ đó không thể chỉ rõ một kappiya (xem ở trên). Tuyệt nhiên không được phép cúng dường tiền. Tu sĩ không bao giờ được sở hữu tiền bạc. Tu sĩ không bao giờ có thể cho ý kiến về việc phải làm gì với số tiền trong một ngân quỹ dành để mua những vật dụng cần thiết, mà chỉ có thể yêu cầu những vật dụng ấy. Những vấn đề này thật tế nhị và hầu hết các tu sĩ không hiểu rõ chúng hoặc bởi thiếu nghiên cứu, bởi truyền thống, hay do ảnh hưởng vi tế của việc khao khát một số tiền.
Như vậy làm thế nào một tu sĩ không nhận tiền có thể có được những vật dụng cần thiết? Có một vài phương pháp được Đức Phật cho phép để có được những vật dụng cần thiết. Cách thức dễ dàng nhất là hỏi một người nào đó ai là người thân thuộc hay ai đã đưa ra một lời mời các Tỳ khưu yêu cầu những vật dụng cần thiết. Thường thì một Tỳ khưu không thể yêu cầu những vật dụng cần thiết từ một người không đưa ra lời mời và không phải là người thân thuộc. Làm như thế là cách kiếm sống tà vạy. Tuy nhiên nếu một Tỳ khưu bị bệnh thì ông ta có thể yêu cầu người nào đó cung cấp thuốc hay thực phẩm. Cũng thế, nếu những bộ y hay chén bát của Tỳ khưu bị mất cắp hay bị hư hỏng thì ông có thể hỏi xin một người khác (Nissaggiya Pacittiya 6 & 21). Một Tỳ khưu cũng có thể yêu cầu nhân công hay mượn các dụng cụ. Ông có thể yêu cầu người nào đó lấy nước từ một nguồn nước công cộng chẳng hạn như một con sông hay một con đập, nhưng ông không thể hỏi xin nước uống là sở hữu riêng tư của một căn nhà của người nào đó. Một tu sĩ cũng có thể lấy gỗ, đá, hay những vật liệu xây dựng từ những vùng đất hoang vu không có người sở hữu và được pháp luật cho phép.
Trước khi thọ giới làm một sa di hay tu sĩ, một người có thể chuẩn bị một ngân quỹ để cung cấp những vật dụng cần thiết khi ông ta trở thành một tu sĩ hay sa di. Một ngân quỹ như thế có thể được để lại cho một người thân hay người bạn và những người này nên được hướng dẫn để dâng cúng những vật dụng cần thiết cho tu sĩ ấy sau khi ông đã thọ giới. Tân tu sĩ hay tân sa di có thể yêu cầu những vật dụng cần thiết từ một người giữ ngân quỹ nếu họ là một thân nhân ruột thịt, nhưng trước hết tu sĩ hay sa di cần được cho một lời mời trước khi ông có thể yêu cầu một người bạn. Điều này nên được giải thích cho người bạn trước khi thọ giới.
Khi một người đã được thọ giới xuất gia, nếu người ấy vẫn còn tiền trong ngân hàng từ khi còn là một cư sĩ, thì người ấy không thể đảm nhận bất kỳ sự dàn xếp nào về số tiền ấy vì lợi ích của riêng ông. Ông có thể để lại số tiền đó trong ngân hàng cho tới khi ông giải y và không sử dụng số tiền đó trong khi ông thọ giới xuất gia. Ông có thể tặng số tiền đó cho cha mẹ, những người thân, hay bạn hữu của ông để họ sử dụng, nhưng không thể tặng cho bất kỳ tu sĩ, sa di, hay tu viện nào.
Việc nhận hay sử dụng tiền trợ cấp trong khi đang thọ giới xuất gia cũng không được cho phép. Những người muốn xuất gia trong Tăng đoàn nên thực hiện những chuẩn bị thích hợp liên quan tới tiền trợ cấpcủa họ trước khi đắp y tu sĩ.

KẾT LUẬN
Những giới luật liên quan tới tiền bạc thật phức tạp khi giải thích nhưng không khó thực hành; mọi sự một Tỳ khưu cần làm là từ chối nhận tiền. Đối với những người giữ những giới luật một cách chân thànhthì họ sẽ đạt được một sự hiểu biết sâu xa về Pháp. Họ sẽ có thể chứng ngộ những trái quả của Tạng Luật là những gì không tìm thấy trong chữ nghĩa của các giới luật mà được khám phá trong trái tim của những người thực hành nó.

OVADA PATIMOKKHA DHAMMACETI
Nhẫn nại là thực hành tối thượng,
Chư Phật nói Niết bàn là Pháp tối thượng,
Kẻ giết hại người khác không phải là người thực sự lên đường,
Kẻ làm hại chúng sinh không phải là một Samana (Sa môn) đích thực.
Đừng làm mọi ác hạnh,
Hãy phát triển những phẩm tính tốt đẹp,
Tịnh hóa bổn tâm,
Đây là lời chư Phật dạy.
Đừng lăng mạ, sỉ nhục hay làm hại người khác,
Hãy tự chế phù hợp với những giới luật của
Giới bổn Tỳ khưu,
Ăn uống điều độ,
Ẩn dật nơi hẻo lánh,
Và nỗ lực định tâm,
Đây là lời chư Phật dạy.

Chú thích:
(a) Tooth-woods, tạm dịch: mộc xỉ, một loại cây thời Đức Phật. Xơ của loại cây này rất mềm, dân Ấn Độ dùng để nhai mỗi buổi sáng cho sạch và thơm miệng.

Tỳ khưu Dhamminda
Bản dịch Việt ngữ của Thanh Liên