Một sự thật hiển nhiên là đâu đâu cũng có sự hiện diện
và tác động của đồng tiền, phương tiện trao đổi có thể mang lại cho con người
một số tiện nghi phục vụ đời sống (quần áo, nhà cửa, phương tiện đi lại, chữa
bệnh, giáo dục, giải trí…), và thông thường nếu không có nó, sẽ gần như chắc
chắn là sự khốn khổ. Cho nên cả đời con người ta xét cho cùng hầu như ai cũng
chạy theo đồng tiền để giải quyết mọi nhu cầu cuộc sống hằng ngày của mình, tuy
có thể bằng những cách thức và thái độ hơi khác nhau tùy theo nhân sinh quan và
mục đích riêng của mỗi người.
Điều đáng nói là vì ai cũng muốn chiếm lấy cho thật
nhiều tiền của mà sinh ra chiến tranh triền miên giành giật cái kho của cải hữu
hạn của Trái đất. Tiền không chỉ mua được hàng hóa, dịch vụ mà còn tạo nên
quyền uy và thế lực cho những người nắm giữ được nó trong tay. Các ngân hàng,
các thế lực tài phiệt chi phối được tiền bạc thì hầu như cũng đồng nghĩa chi
phối cả nền kinh tế-tài chính và đời sống chính trị-xã hội của cả nước. Cho nên
hễ ai lệ thuộc kinh tế thì thường thường phải chịu cảnh lép vế về chính trị,
xét ở mức độ nhỏ cá nhân hay quy mô lớn quốc gia cũng đều như thế cả.
Đồng tiền vốn hiện diện khắp nơi và chi phối mọi hoạt
động của con người trên tất cả các mặt tốt cũng như xấu: tham nhũng cướp bóc vì
tiền đã đành, không ít trường hợp anh em ruột thịt kiện tụng chém giết nhau
cũng vì tiền… Sinh ra đủ thứ bệnh tật hết thuốc chữa, hay thậm chí tự tử vì phá
sản vỡ nợ, nguyên nhân cũng ít khi ngoài chuyện tiền bạc… Nhưng để được sống
hạnh phúc hơn, một số không ít người cũng có thể nhờ có tiền mà đạt được. Thế
cho nên người ta mới nói tiền là tiên là Phật, động lực của tiến hóa, và thường
khi phải có tiền mới có được lễ nghĩa (phú quý sinh lễ nghĩa)…
Hiện nay nhân loại đang đứng trước hai cuộc khủng
hoảng lớn: khủng hoảng môi sinh và khủng hoảng tài chính. Cuộc khủng hoảng sau
nói theo cách đơn giản hơn chính là cuộc khủng hoảng tiền, khiến cho bao nhiêu
đầu óc tinh hoa của nhân loại phải họp chung nhau lại trong các cuộc hội nghị
thượng đỉnh quốc tế tìm cách đối phó mà hiện vẫn chưa thấy được lối ra căn bản,
nếu không muốn nói bế tắc. Nhưng giữa hai cuộc khủng hoảng (môi sinh và tài
chính) là có quan hệ biện chứng với nhau: để tạo ra đồng tiền, người ta sản
xuất và tiêu thụ, theo cái vòng luẩn quẩn đẩy mạnh tiêu thụ để duy trì và phát
triển sản xuất, thế là tạo nên tình trạng ô nhiễm môi sinh vô phương cứu chữa,
với nạn khí thải, nước thải, rác thải… không còn chỗ chứa hoặc tiêu hủy, dẫn
đến hiện tượng biến đổi khí hậu toàn cầu đe dọa ngày càng gắt gao hơn sự sinh
tồn của loài người trên khắp cả hành tinh.
Đồng tiền quan trọng và thiết thân như vậy, nhưng
trong thế giới hiện đại, được biết có một người dám chủ trương thực hành lối
sống không cần tiền. Đó là bà Heidemarie Schwermer người Đức, sinh năm 1942, đã
15 năm nay quyết ý đoạn tuyệt với tiền. Bà là tác giả của trung tâm “Cho và
nhận” sáng lập năm 1994, mô hình đầu tiên ở Đức về trao đổi hàng hóa, kỹ năng
mà không có sự hiện diện của tiền. Heidemarie đã xuất bản hai cuốn sách, trong
đó cuốn Cuộc đời không tiền của tôi
đã được dịch sang các thứ tiếng Ý, Tây Ban Nha, Nhật Bản và Hàn Quốc. Hơn 20
quốc gia đã chiếu bộ phim tài liệu về cuộc sống không tiền của bà (có thể xem
http://livingwithoutmoney.org/).
Bà này có “ngược đời” và gàn dở lắm không? Chắc là
không. Trong bộ phim, có người gọi bà là “ăn bám” người khác, nhưng cũng có
người gọi bà là nguồn cảm hứng lớn. Bộ phim nói về ảnh hưởng của tiền bạc tới
cách nghĩ, cách sống, sức khỏe của con người và môi trường xung quanh, cho thấy
chủ nghĩa vật chất cùng với sự tiêu thụ quá mức của con người hiện đại.
Theo nhà báo Khổng Loan, người thực hiện cuộc phỏng
vấn bà Heidemarie qua mạng internet (đăng trên báo Tuổi Trẻ, 18.9.2011), trong
thế giới mà giá trị vật chất trở thành tiêu chuẩn và làm cho con người điên lên
thì bà Heidemarie không để tiền hiện hữu trong cuộc đời mình, kể cả dưới hình
thức thẻ tín dụng hoặc séc. Trả lời câu hỏi không xài tiền thì sống cách nào,
bà Heidemarie cho biết: “Tôi không mua gì
cả. Tôi sống với những người khác, trông nom nhà cửa hay giúp đỡ họ để đổi lấy
đồ ăn. Tôi cảm thấy mình rất giàu mà không cần tiền. Tiền lương hưu, tôi cho
cả. Đồ ăn, quần áo và tất cả mọi thứ cần trong một ngày đều đến từ những người
khác sau khi tôi và họ trao đổi với nhau… Tôi đã có được sự tự do vĩ đại vì tôi
không phải chạy theo đồng tiền”.
Quả thật, bà Heidemarie không chút gàn dở. Trái lại,
những gì được giải thích thêm như sau đây liên quan các vấn đề thuộc về lối
sống và môi trường còn chứng tỏ chủ trương của bà hoàn toàn minh triết và cũng
có thể không quá đáng nếu gọi bà là một bậc tiên tri: “Tôi sống không có tiền có nghĩa tôi phát hiện một cuộc sống có chất
lượng mới mà tôi cảm nhận được thông qua sự quan tâm và chia sẻ với người khác.
Tôi quan tâm tới mình, tới hàng xóm, tới xã hội. Tất cả dường như tạo nên sức
bật mới, dâng hiến cho cuộc sống. Thay vì chạy theo một cách đau khổ những phú
quý tiền tài, để mối quan tâm của cuộc đời vào vật chất, những gì tôi quan niệm
hiện nay là từ bên trong. Theo cách này sẽ dẫn đến sự thay đổi các giá trị, sự
thay đổi đó chính là cái mà chúng ta cần để bù đắp những đổ vỡ. Có sự khác nhau
giữa người nghèo, người giàu, xảy ra thảm họa thiên nhiên và những điều xấu xa
khác đều đến từ lòng tham về tiền bạc của con người”.
Sống như bà Heidemarie, mới thoạt trông thấy có vẻ như
bất cận nhân tình, nhưng một khi người ta đã có đủ kinh nghiệm để hiểu ra rằng “nhà giàu cũng khóc” (tên một bộ phim), và “… Tiền có thể mua được thuốc men nhưng
không thể mua được sức khỏe. Tiền có thể mua được thực phẩm nhưng không thể mua
được sự ngon miệng. Tiền có thể mua được các phương tiện hưởng lạc nhưng không
thể mua được hạnh phúc” (lời Giáo sư-Pháp sư Tế Quần nói trong một bài viết
về bảo vệ môi trường), thì người ta sẽ có thể bắt đầu thấy bà Heidemarie có lý.
Chủ trương sống không cần tiền, nếu muốn áp dụng vào
đời sống thực tế hằng ngày thì hầu như là điều khó thể thi hành được cho số
đông mọi người, kể cả đối với linh mục, nhà sư… Nhưng nó hoàn toàn hiện thực
cho số ít người nào nhờ sự suy nghiệm sâu sắc riêng mà đồng thuận được với nó,
như bà Heidemarie đã từng chứng tỏ một cách thành công. Tác dụng tốt đẹp của
triết lý sống không cần tiền tối thiểu cũng nằm ở chỗ nó là loại triết lý mang
tính vừa phản kháng vừa cách mạng để cảnh tỉnh loài người luôn phải ý thức về
việc cần phải điều chỉnh lại lối sống của mình nếu muốn tránh được các xáo trộn
xã hội và mối hiểm họa bị hủy diệt do tác động phá hủy của môi trường trong
tương lai. Điều này còn nhắc nhở mọi quốc gia cần phải xem xét lại các chính
sách phát triển cơ bản của mình, để không tiếp tục chạy theo đường lối phát
triển ồ ạt bằng công nghiệp hóa hiện đại hóa một cách mù quáng thiếu cân nhắc
mà kết quả chắc chắn chỉ là sự phá hủy môi trường sống của chính mình.
Một nước Nhật hay nước Mỹ chẳng hạn, giàu có nhờ khả
năng phát triển thần tốc của khoa học-kỹ thuật và kinh tế với thu nhập đầu
người tính bằng tiền rất cao nhưng trong đó con người bệnh tật cũng nhiều vì
quá no đủ thừa mứa, lại luôn luôn phải tất bật căng thẳng trong cuộc sống liên
tục bị dồn nén, để xảy ra nhiều trục trặc trong đời sống tâm lý khiến hạnh phúc
bị giới hạn…, nếu xét kỹ, chưa chắc xứng đáng là mô hình gương mẫu của nền văn
minh hiện đại để các nước noi theo. Trái lại, nhận xét như bà Heidemarie lại có
vẻ thực tế hơn, “Đúng là hạnh phúc xuất
phát từ bên trong con người. Bởi vậy, những nghiên cứu cho thấy con người sống
ở nước nghèo lại hạnh phúc hơn người ở nước giàu”. Tất nhiên, nghèo nhưng
đừng quá nghèo đến mức đói khổ gầy trơ xương như không ít người hiện nay ở châu
Phi.
Sống nghèo nhưng được bình yên hạnh phúc hơn, đây là
một thực tế có cơ sở chứng minh vững chắc chứ không phải lời nói vu khoát. Hình
ảnh ngược lại với một số quốc gia phát triển theo hướng thiên trọng văn minh
vật chất là các nước Lào, Campuchia ,
Myanmar (Miến
Điện)… trước đây, theo truyền thống có lối sống dựa trên nền kinh tế chịu ảnh
hưởng Phật giáo mà có được cuộc sống tương đối bình ổn. Nay do bị cuốn hút bởi
trào lưu công nghiệp hóa hiện đại hóa, và bị các giới đặc quyền chính trị-kinh
tế lợi dụng chi phối, dân tộc Lào và Campuchia đã không còn được sống bình yên
như trước, phong tục tập quán tốt đẹp bị xáo trộn dữ dội và đang phải đứng
trước những thách thức thật sự đáng lo ngại trong việc họ phải đối đầu với hiểm
họa môi trường do các dự án xây dựng gây ra, khiến cho “cây đa cũng cụt, dòng
sông cũng què”, ruộng đồng bị “bê tông hóa”, kèm theo là hiện tượng tiêu cực
tham nhũng ngày một gia tăng. Trung Quốc, Việt Nam cũng đã và đang lâm vào tình
hình tương tự nhưng còn nặng nề hơn, vì đi trước những nước kia một bước trên
con đường “phát triển thần tốc”, ngoài ô nhiễm môi trường còn có nạn tham nhũng
tràn lan vô phương cứu chữa, hố ngăn cách giàu nghèo ngày càng sâu sắc, văn
hóa-đạo đức xuống cấp thê thảm, các tệ đoan xã hội trong đó có nạn cướp của
giết người dã man thừa cơ phát triển, khiến dân chúng phải sống trong tình
trạng bị đe dọa thường trực, các nhà chức trách luôn điên đầu mà vẫn chưa tìm
được giải pháp căn bản khả thi để ngăn chặn hiệu quả. Suy cho cùng, và nói đơn
giản dễ hiểu, tất cả cũng chỉ vì xã hội nhắm mắt chạy theo đồng tiền!
Riêng tại Myanmar, tình trạng có lẽ khá hơn, đáng là
hiện tượng để suy nghĩ, và có thể sẽ trở thành bài học tham khảo chung cho
nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt cho những nước có trình độ phát triển
tương tự nhưng đang quá hăng hái chạy đua theo con đường tiền của, vật chất mà
bất chấp sự hủy hoại văn hóa-đạo đức cũng như môi sinh.
Như chúng ta đều biết, Myanmar là một nước nói chung
rất nghèo, suốt hơn thế kỷ là thuộc địa của Anh (1825-1948), lại bị nạn quân
phiệt đè ép trong 50 năm (1962-2010), nhưng bần cùng mà vẫn không sinh đạo tặc
là nhờ giữ được nền văn hóa truyền thống cố hữu, biết “tri túc thiểu dục”, có
nếp sống từ bi theo tinh thần Phật giáo, với 89% dân số theo đạo Phật (Tiểu
thừa), phần lớn đều có thói quen thiền định mỗi ngày. Các nhà báo quốc tế khi
đến Myanmar làm việc đều ghi
nhận như vậy: người dân Myanmar
tuy nghèo nhưng vẫn hiền lành, giàu lòng nhân ái, sự nghèo khó của họ không
đồng nghĩa với sự xuống cấp về văn hóa-đạo đức. Từ thành thị xuống đến các vùng
nông thôn xa xôi hẻo lánh, người Myanmar không đánh lộn, không chửi thề, không
phóng uế bừa bãi, không xả rác vô tội vạ, và đặc biệt là không có nạn trộm cắp,
lừa đảo, hay dùng thủ đoạn ma mãnh để kiếm tiền bằng mọi giá!
Người Myanmar hiện đại lẽ tất nhiên không phải là một
dân tộc “sống không cần tiền” như trong nền kinh tế “hoán vật” của loài người
sơ khai, nhưng không phải vì tiền, vì nhắm mắt chạy đua theo của cải vật chất
mà sinh ra nạn phá rừng vô tội vạ làm hủy hoại môi trường, hoặc trộm cướp bất
lương. Trái lại, phần lớn họ chỉ “xin Phật cho con mỗi ngày dùng đủ”. Cho nên
có thể nói, triết lý sống không cần tiền rất gần gũi với lối sống của nhà Phật.
Ảnh hưởng tốt đẹp của đạo Phật trong việc giúp thắng
bớt tham vọng chạy đua vật chất quá đà của thế giới hiện nay, tích cực góp phần
gìn giữ hòa bình và sự an lạc cho toàn cõi hành tinh của chúng ta, đã được
chứng minh một cách hùng hồn qua thực tế Myanmar, một quốc gia lấy đạo Phật làm
quốc giáo, ở đó “tự thiên tử dĩ chí ư thứ dân”, hầu hết ai cũng muốn sống theo
tinh thần từ bi, tri túc thiểu dục của nhà Phật.
Cả thế giới hiện nay đang cùng nhìn về nước Myanmar với
cuộc cải cách lớn từ đầu năm 2011 theo hướng dân chủ hóa đời sống chính trị của
đất nước. Nếu cuộc cải cách này thành công, mà vẫn giữ được truyền thống văn
hóa Phật giáo, người ta có rất nhiều lý do để tin tưởng quốc gia này sẽ có một
tương lai phát triển tốt đẹp và bền vững, nghĩa là phát triển cân bằng, không
hủy hoại môi sinh và những mặt tích cực khác trong đời sống tâm linh theo
truyền thống Phật giáo. (TC. Văn Hóa
Phật Giáo)
Trần Văn
Chánh.
No comments:
Post a Comment