Kỳ 1:
Triết lý hạnh phúc
Triết lý hạnh phúc
TT - “Chốn địa đàng
cuối cùng”- (The last Shangri-la), “Thiên đàng nơi hạ giới”, “Đất nước hạnh
phúc nhất thế giới”, “Thụy Sĩ của phương Đông”,... Đấy là một
vài danh xưng khác của vương quốc Bhutan.
Thimphudzong – Công
trình kiến trúc điển hình ở thủ đô Thimphu. Ảnh L.Đ. Dục
Nhiều người nghe cái tên Bhutan hơi lạ lẫm, như mười năm
trước, một người bạn sau khi viết xong cuốn sách về Tây Tạng mang đến tặng tôi
và nói: “Đi Tây Tạng về càng khao khát đi Bhutan hơn, đó mới thật sự là xứ sở
tuyệt vời bởi còn bảo tồn được Phật giáo Himalaya nguyên thủy!”. Khi ấy tôi
cũng buột miệng hỏi: “Bhutan - đó là xứ sở nào vậy?”. Và giấc mơ được đặt chân
đến Bhutan đã gieo mầm trong tâm thức tôi từ ngày ấy, tròn mười năm về trước...
Chạm mặt địa đàng
Một ngày cuối tháng 4 vừa qua, sau chuyến bay khuya Sài Gòn
- Bangkok, vạ vật tại phi trường Suvarnabhumi thêm mấy giờ đợi làm thủ tục
check-in ở quầy của Hãng hàng không quốc gia Bhutan Drukair, chiếc xe buýt chở
chúng tôi ra điểm đỗ của chiếc máy bay Airbus mang quốc kỳ Bhutan lúc 4g sáng.
Khi leo hết bậc cầu thang lên máy bay, gương mặt thanh thoát với đôi mắt xếch
của cô tiếp viên hàng không trong bộ trang phục kira truyền thống đứng chào đón
cho tôi cảm giác dường như mình đã chạm được vào Bhutan, dù rằng hành trình từ
Bangkok đến Bhutan phải thêm hơn ba giờ bay vượt quãng đường mấy ngàn cây số từ
miền nắng ấm Đông Nam Á để hạ cánh xuống một sân bay bên triền Himalaya được
mệnh danh là nguy hiểm nhất thế giới: sân bay Paro! Sân bay quốc tế này của
vương quốc Bhutan chỉ có duy nhất một... đường băng để cất và hạ cánh, nằm lọt
thỏm giữa thung lũng và hai bên là những dãy núi cao vút.
Có lẽ là một cơ may khi được chạm mặt Bhutan vào buổi bình
minh của một sáng mùa xuân như hôm nay, khởi đầu một ngày mới, khởi đầu một
cuộc viễn du mới, tới một vùng đất mình đã từ lâu mơ ước. Máy bay giảm độ cao
trườn vào giữa khe núi, nhìn ra hai bên cảm giác như vách núi gần chạm vào cánh
bay.
Đội bay của Drukair - Hãng hàng không quốc gia Bhutan - vốn
chỉ có vài chiếc máy bay này được mệnh danh là những phi công giỏi nhất thế
giới. Những máy bay của các tỉ phú, nguyên thủ quốc gia khác muốn hạ cánh thăm
viếng Bhutan cũng phải nhờ vào họ, bởi việc luồn lách một chiếc phản lực giữa
những vách núi không hề là chuyện dễ dàng. Và giờ đây, từ sân bay quốc tế bé
nhỏ với đường băng duy nhất ấy, hàng không Bhutan đã có đường bay tới Bangkok
(Thái Lan), Dhaka (Bangladesh), Singapore, Kolkata, Delhi (Ấn Độ), Kathmandu
(Nepal)... Thế nhưng không một hãng hàng không nước nào lại có thể bay tới được
Bhutan! Trong câu chuyện gian nan và phát triển của hàng không Drukair, tôi lờ
mờ nhận ra một triết lý đồng điệu với triết lý phát triển của đất nước này, và
cũng chỉ vừa kịp nghĩ đến đó, tiếng vỗ tay của hơn 100 hành khách trên chuyến
bay vang lên rào rào kéo tôi ra khỏi mạch nguồn “triết lý Bhutan”. Đấy là tiếng
vỗ tay hân hoan chào mừng máy bay đã đáp xuống đường băng an toàn, bởi có lẽ
những du khách đến Bhutan trên chuyến bay này, họ cũng như tôi, đã không thể
không có chút lo lắng mơ hồ khi đọc về những chuyến bay mạo hiểm qua những vách
đá. Và chắc mỗi ngày trên phi trường Paro này những phi công của Drukair đều
luôn nhận được những tràng pháo tay bày tỏ sự khâm phục và mừng vui như thế.
“Tại sao Bhutan?”
Chắc chắn đó là một câu hỏi của bất kỳ ai muốn tìm hiểu về
quốc gia bé nhỏ và khá biệt lập này! Thập niên 1950-1960, khi Mỹ và Liên Xô đã
phóng những vệ tinh vào vũ trụ thì Bhutan vẫn chưa có... đường ôtô, và cũng chỉ
hơn mười năm trước, năm 1999, khi Internet bắt đầu phổ biến trên thế giới thì ở
Bhutan người dân bắt đầu nhìn thấy những “chiếc hộp kỳ lạ” biết ca hát và nhảy
múa - đấy là những chiếc tivi đầu tiên đến với xứ sở Bhutan. Có nhiều câu
chuyện hài hước của người dân khi tiếp cận với phương tiện văn minh này, rằng
nhiều người dân đã chui xuống gầm giường để... trốn khi thấy trên tivi những võ
sĩ to béo đang nổi giận chỉ vì sợ “họ nhảy ra khỏi cái hộp đó và đánh mình”
(!). Một họa sĩ khi đang vẽ bức tranh tường trên Tu viện Taktshang (Tiger’s
Nest), cheo leo trên vách đá ở độ cao hơn 700m, đã suýt rơi khỏi giàn giáo vì
trông thấy một “ngôi nhà hình con cá khổng lồ đang chao lượn và gầm rú” - mà
thật ra đó là chiếc máy bay đang chuẩn bị hạ cánh xuống phi trường Paro gần đó.
Những câu chuyện thoạt nghe có vẻ hài hước nhưng đằng sau nó
chứa đựng hình ảnh một Bhutan dường như rất xa lạ với thế giới văn minh! Vậy
nhưng chỉ hơn mười năm sau đó, giờ đây Bhutan đang là giấc mơ của nhiều quốc
gia khác, và cũng chỉ là giấc mơ thôi, bởi để có được những gì Bhutan đang có
không phải dễ. Với công thức làm nên tổng hạnh phúc quốc gia (GNH) dựa trên bốn
mục tiêu: phát triển kinh tế - xã hội bền vững/bảo vệ môi trường/bảo tồn và
phát huy bản sắc văn hóa truyền thống/một chính quyền hoạt động hiệu quả và
trong sạch.
Chỉ bốn vấn đề ấy thôi, nhưng khi tìm hiểu về GNH của
Bhutan, tôi đã tìm thấy trong tài liệu của The Centre for Bhutan Studies
(CBS-Trung tâm Nghiên cứu Bhutan), để tính toán chỉ số hạnh phúc của người dân
Bhutan, những nghiên cứu viên của trung tâm này đã có những chỉ số tính toán mà
tôi chưa bao giờ nghe thấy, ví như số... giờ ngủ bình quân của một người Bhutan
trong năm (!) bởi theo tính toán của GNH, để người dân ngủ đủ số giờ cần thiết
cũng là một chỉ số đo lường hạnh phúc! Lo đến từng giấc ngủ cho dân cả một
nước, chỉ riêng chuyện này thôi đủ cho chúng tôi tin Bhutan thật sự là “địa
đàng chốn trần gian” dù những ngày ở Bhutan chúng tôi biết dân Bhutan chưa phải
giàu có, nhưng hạnh phúc với người Bhutan lại không nằm ở những chuyện bạc tiền
vật chất, điều ấy có lẽ ngược lại với nhiều xứ sở khác trên Trái đất này!
Một quốc gia với diện tích 47.500km2 và dân số chừng 70 vạn người, nằm kín
trong vùng lục địa Nam Á, lọt thỏm giữa hai quốc gia to lớn là Ấn Độ và Trung
Hoa. Bhutan tuy bé nhỏ nhưng vẫn an nhiên tự tại giữ gìn nguyên vẹn bản sắc văn
hóa của đất nước mình, bảo tồn nguyên vẹn những cánh rừng nguyên sinh đang che
phủ hơn 72% diện tích đất nước với phong cảnh tuyệt đẹp.
Bhutan là nước duy nhất trên thế giới cấm săn bắn và đánh
cá. Là nước duy nhất cấm được chuyện hút thuốc lá trong dân chúng. Là nước duy
nhất đưa ra khái niệm “tổng hạnh phúc quốc gia” (gross national happiness-GNH)
thay cho tổng sản phẩm quốc nội (gross domestic product) bởi theo Quốc vương
Jigme Singye Wangchuck, người đưa ra khái niệm GNH, ông cho rằng GDP chưa chắc
mang lại hạnh phúc cho người dân mà hạnh phúc chính là sự phát triển nhằm vào
sự tăng tiến giá trị đời sống nhưng vẫn bảo tồn được thiên nhiên và văn hóa, chứ
không phải nằm ở số lượng vật chất sản xuất và tiêu thụ!
Kỳ 2:
Giữ môi trường
trong từng... hơi thở
TT - Một buổi chiều
trên đường từ cố đô Punakha về khách sạn nằm ở thị trấn Wangdue, tôi bất ngờ
nhìn thấy một cành thông khá lớn bổ ngang qua đường.
Hoa đỗ quyên dưới
những cánh rừng nguyên sinh. Ảnh L.Đ. Dục
Điều đáng nói là cành cây ấy lại uốn cong hình chữ V mà đáy của nó nằm ngay giữa tim đường, nếu không cẩn trọng khi ôtô chạy qua sẽ đâm vào đáy của đoạn cây uốn cong hình chữ V ấy. Và theo như logic thông thường, ở bất cứ xứ nào nhân viên công trình giao thông sẽ cưa ngay nhánh cây để đảm bảo an toàn.
Chuyện một cành cây
Chuyện một cành cây
Nhưng người Bhutan đã không ứng xử như vậy. Ngay giữa tim
đường, phía dưới đáy nhánh cây sà xuống ấy, họ xây một cái trụ tháp nho nhỏ
vươn lên, vừa đỡ lấy nhánh cây không bị đổ, vừa chia con đường ra hai luồng cho
xe cộ lưu thông hai bên. Cành cây không bị cưa cắt mà giao thông vẫn an toàn.
Cái hình ảnh đối xử “lễ độ” với cành cây ấy cứ ám ảnh trong tôi rất lâu trên
những dặm đường khám phá đất nước Bhutan xinh đẹp. Đôi khi chỉ cần một hình ảnh
như thế, chiếc trụ nhỏ đỡ nhánh cây trên đường đủ nói lên nhiều điều về ứng xử
với thiên nhiên và môi trường mà không cần phải kẻ vẽ hay hô hào quá nhiều panô
và khẩu hiệu.
Cũng chính trong buổi chiều hôm ấy, khi lên tu viện Khamsun
Yuley được xây ở phía bắc cố đô Punakha, chúng tôi đã gặp một hình ảnh tương
tự: một cây thông cổ thụ cũng sà xuống cản lối lên tu viện vốn rất nhỏ và dốc,
nhưng thay vì đi tránh lối khác, lối đi này lại được khoét sâu xuống để lọt vừa
tầm vóc một người đi qua bên dưới thân cây. Phía trên gốc cây, ai đó đã trồng
thêm vào một khóm hoa giấy, leo quấn quýt trên thân cây thông lão trượng, biến
thành một chiếc cổng chào tự nhiên xinh đẹp và ấn tượng trên lối lên chùa. Trên
dặm dài hành trình qua Bhutan, chúng tôi lại phát hiện thêm những niềm vui cây
cỏ như thế, bình dị mà ấm áp.
Nhưng “lễ độ” với thiên nhiên không chỉ là câu chuyện ứng xử
với những cành cây nghiêng ngả trên lối đi. Nhà vua Bhutan đã từng ra một sắc
lệnh khi một cây rừng bị chặt đi người dân phải trồng lại ba cây khác thay vào
đó. 72% diện tích đất nước được che phủ bởi rừng rậm là một con số cao vào hàng
nhất thế giới, nhưng không bằng lòng với con số ấy, đất nước này vẫn luôn tìm
mọi cách tăng độ che phủ của rừng và từ lâu nhà vua luôn là người tìm cách đưa
diện tích rừng tăng lên mỗi năm. Dịp kỷ niệm lễ đăng quang của mình, thay vì
người dân chờ đợi được xem những cuộc diễu hành huy hoàng và tráng lệ, nhà vua
đã tuyên bố đó sẽ là ngày “lâm nghiệp xã hội”, những trường học cũng như cộng
đồng dân cư được nghỉ lễ để đi... trồng cây! Và chính thiên nhiên đã đền đáp
lại cho đất nước Bhutan những ân tình mà người dân đã đối xử với cây cỏ.
Trên đường từ thủ đô Thimphu về cố đô Punakha, không thể
không dừng lại trên đỉnh con đèo Dochula với độ cao 3.050m. Không chỉ vì nơi
đây có một công trình với 108 ngọn tháp (chortens) được xây để tưởng nhớ những
tiền nhân đã mang đạo Phật đến xứ sở Bhutan, và may mắn nếu gặp ngày đẹp trời
có thể phóng tầm mắt nhìn ra dãy Himalaya để chiêm ngắm những đỉnh núi phủ
tuyết trầm mặc. Trên ngọn đèo này, vẻ đẹp thiên nhiên của Bhutan hiện ra đẹp
lộng lẫy và rực rỡ nhất nếu bạn đến đây đúng vào những ngày xuân ấm nắng. Giữa
điệp trùng chồi thông cổ thụ đang rực lên như hổ phách dưới sắc vàng của màu
nắng xuân trong veo là những thảm hoa đỗ quyên bừng nở đỏ rực. Hốt nhiên trong
cái khoảnh khắc ấy, giữa trời xanh, mây trắng và những đỉnh núi tuyết trầm mặc
xa mờ, sắc hoa đỗ quyên giữa ngàn thông nguyên thủy tinh khôi thật sự mang tới
cảm giác của một “cõi địa đàng trần gian” mà người ta thường ví von khi nhắc
đến Bhutan. Địa đàng ấy là đây, trong tầm mắt chúng tôi ngay trên đỉnh đèo
Dochula một buổi trưa lồng lộng gió và nắng!
Giữ “lá phổi” cho đất
nước
Hôm đầu tiên từ sân bay Paro về thủ đô Thimphu, chúng tôi
cũng bất ngờ gặp ven đường một hình ảnh quen thuộc, gợi nhớ những ngôi nhà
chúng tôi đã gặp trên rẻo cao Tây Bắc, Việt Bắc ở nước ta. Đấy là người Bhutan
cũng dựng những ngôi nhà của mình theo phương pháp “trình tường”. Hóa ra một
đất nước giàu rừng nhiều gỗ như Bhutan nhưng giờ đây gỗ được dùng rất hạn chế
trong xây dựng. Những ngôi nhà với lối kiến trúc Bhutan đều từa tựa như các
“dzong” (tu viện). Sau khi dựng móng bằng đá, tường sẽ được “trình” bằng các
khuôn gỗ, đất được lèn chặt vào khuôn và nén kỹ, chỉ có khung cửa sổ làm bằng
gỗ được đặt gọn vào tường.
Và thật kỳ diệu, cho dù chỉ trình tường bằng đất nhưng những
ngôi nhà chúng tôi gặp ở Bhutan đều có độ cao 2-4 tầng lầu. Sau này gặp anh
Tashi, một người bạn vừa quen ở Bhutan, khi chúng tôi hỏi có mâu thuẫn gì không
trong việc bảo vệ môi trường thiên nhiên, cụ thể ở đây là gỗ rừng và việc những
cư dân đang có nhu cầu làm nhà ở trước sự phát triển nhanh chóng của các đô thị
như Thimphu, Paro, Punakha..., anh cho biết chính phủ đang khuyến khích dân xây
dựng nhà cửa bằng những vật liệu khác thay vì từ gỗ như truyền thống. Gạch đá,
ximăng được nhập từ Ấn Độ cũng đang thịnh hành thay cho những ngôi nhà bằng gỗ.
Bài học gìn giữ những cánh rừng trên đất nước Bhutan được nhà vua Jigme Singye
Wangchuck rút ra từ kinh nghiệm đau thương của đất nước Nepal “hàng xóm”. Những
cánh rừng ở Nepal bị đốn trụi đã mang đến tai ương với lũ lụt và hạn hán triền
miên. Bởi thế, để không “giẫm lên” vết chân Nepal, người Bhutan đã làm cho xứ
sở của mình trở thành quốc gia có độ che phủ của rừng cao nhất thế giới!
Nhưng chuyện “cột trụ môi trường” ở Bhutan đâu chỉ là chuyện
vĩ mô với những cánh rừng, Bhutan còn xứng đáng là quốc gia duy nhất trên thế
giới không có cư dân hút thuốc lá! Trước ngày đi Bhutan, những bạn bè cùng
thiết kế chuyến đi đã nhắc đi nhắc lại rằng nếu nhỡ một ai trong chúng tôi
nghiện thuốc lá thì nên nghiên cứu kỹ “luật cấm thuốc lá” của Bhutan. Tuy cấm
với cư dân đất nước nhưng du khách đến Bhutan vẫn được mang theo tối đa chừng
một cây thuốc (200 điếu), có điều số thuốc lá này phải trải qua nhiều thủ tục
rất nhiêu khê cộng với đóng thêm một khoản tiền thuế rất cao để mang được thuốc
lá vào. Nhưng mang vào là một chuyện, hút được thuốc lá ở Bhutan lại là một
chuyện khác. Bhutan cấm hút thuốc nơi công cộng, và nơi công cộng theo luật
Bhutan là nơi đó có... hai người trở lên.
Nếu môi trường ở Bhutan tuy khó khăn nhưng vẫn được bảo vệ
một cách tuyệt đối thì việc giữ gìn bản sắc văn hóa truyền thống lại đòi hỏi
những nỗ lực gian khó hơn, bởi trong một thế giới phẳng khi mà Internet và
truyền hình vệ tinh đã phủ sóng trên những triền núi Himalaya, nỗi âu lo về sự
xâm thực của văn minh với văn hóa truyền thống không phải là điều gì quá lạ
lẫm!
Kỳ 3:
Bản sắc hay là...
chết!
TT - “Là một đất nước
nhỏ, chúng tôi không có sức mạnh về kinh tế. Chúng tôi không có lực lượng quân
sự mạnh, không có một vai trò lớn trên quốc tế bởi dân số quá bé nhỏ và cũng
bởi chúng tôi là một đất nước khép kín. Yếu tố duy nhất có thể gia tăng sức
mạnh chủ quyền của Bhutan và bản sắc độc đáo của chúng tôi là văn hóa”.
Punakhadzong- Hơn 100
năm trước vị vua đầu tiên của triều đại Wangchuck
đã lên ngôi tại dzong
này.
Đấy là lời giải thích của vua Jigme Singye Wangchuck với phóng viên New York Times từ năm 1991 được National Geographic trích dẫn lại trong một số báo chuyên đề về Bhutan của tờ tạp chí nổi tiếng này.
Từ “pháo đài” đến “lâu đài”
Từ “pháo đài” đến “lâu đài”
Những ngày lang thang qua những thành phố hay làng mạc của Bhutan, từ
thủ đô tới cố đô, dấu ấn văn hóa để lại ấn tượng nhất từ đất nước này có lẽ
chính là các “dzong”. Dzong là những pháo đài ngày xưa được dựng lên để bảo vệ
đất nước, giờ đây dzong trở thành những trung tâm tôn giáo và hành chính, với
vẻ đẹp bền vững bề thế của pháo đài, vừa rực rỡ, sang trọng như những lâu đài,
cung điện.
Thật kỳ lạ khi biết rằng những pháo đài được xây dựng cách
nay 5-6 thế kỷ với diện tích rộng đến hàng hecta này lại không hề có đồ án
thiết kế kiến trúc ban đầu, tất cả đều đặt dưới sự chỉ huy của một vị latma cao
cấp. Và cho dù bề thế, đồ sộ như vậy nhưng các dzong được dựng nên mà không hề
dùng đến chiếc đinh nào.
Ở thủ đô Thimphu, không thể không ghé đến Tashichoe dzong
hay còn gọi là Thimphu dzong.
Nếu pháo đài bề thế nằm bên dòng sông Wangchu này ngày nay
được dành để đặt các cơ quan hành chính của nhà nước đồng thời cũng là “cung
điện mùa hè” cho các vị lãnh đạo Phật giáo, thì Punakha dzong ở cố đô Punakha
được gọi là “cung điện mùa đông” bởi Punakha nằm ở độ cao thấp hơn, khi thủ đô
Thimphu tuyết rơi phủ trắng mái dzong thì Punakha vẫn ấm áp và hoàng gia có thể
dời về đây. Punakha dzong đẹp đến sững sờ nếu bạn đến đây đúng vào mùa phượng
tím.
Thật may mắn, ngày chúng tôi viếng thăm Punakha dzong là một
ngày hàng phượng tím vây quanh tu viện này đang độ mãn khai, tím ngát cả một
khung trời bên dòng sông Phochu.
Nằm ở nơi hợp lưu của hai con sông Phochu (trống) và Mochu
(mái), pháo đài này được dựng lên từ thế kỷ 17 và sau nhiều lần hư hại vì động
đất, hỏa hoạn, nó vẫn được trùng tu với vẻ đẹp vô cùng tráng lệ. Nơi đây hơn
100 năm về trước, năm 1907, vị vua đầu tiên của vương triều Wangchuck, vua
Ugyen Wangchuck, đã làm lễ đăng quang.
Tuy nhiên pháo đài - tu viện hiển linh nhất, thánh địa của
người Bhutan lại ở Paro, miền tây Bhutan, đấy là Taktsang, nằm trên một vách đá
cheo leo ở độ cao hơn 3.000m, và đến hôm nay khi đến đây vẫn không ai có thể
hiểu được vì sao người ta có thể xây một tu viện cheo leo trên một vách đá dựng
đứng vô cùng hiểm trở như thế. Bởi từ đấy nhìn xuống, dễ bị ngộp bởi hun hút
một đáy vực sâu đến 750m!
Bhutan, theo thống kê có đến hơn 2.000 dzong, những pháo đài
này lại thường nằm trên những đỉnh núi cao hay các triền dốc nguy hiểm.
Lịch sử vệ quốc của Bhutan, với những công trình dzong như
vậy, khiến người ta không thể không buột miệng: Làm sao có thể xây dựng được
những công trình ở một địa thế như thế? Hỏi cũng là trả lời, bởi thực tế là các
dzong đã hiện diện qua bao nhiêu dâu bể hàng thế kỷ và nay vẫn trơ gan cùng tuế
nguyệt, thời chiến là “pháo đài”, thời bình là “lâu đài”, đó có phải là một
cách để Bhutan tồn tại, bất chấp những láng giềng của Bhutan quanh dãy
Himalaya đã dần... biến mất.
Ví như vương quốc Ladakh bị triệt phá vào năm 1842 rồi sau
đó sáp nhập vào Ấn Độ; Tây Tạng trở thành một phần của Trung Quốc năm 1950;
vương quốc Sikkim, láng giềng phía tây của Bhutan, từ hơn 40 năm nay cũng thành
một tiểu bang của... Ấn Độ.
Nhìn từ du
khách
Trong khi nhiều nước đẩy nhanh số lượng khách quốc tế bằng
mọi giá, lấy con số du khách đến xứ sở mình như một thước đo minh chứng sự phát
triển du lịch thì Bhutan lại không màng đến... số lượng. Chỉ riêng mức ấn định
lệ phí 250 USD/du khách/ngày khi đặt chân lên Bhutan đã hạn chế một số lượng
đông đảo khách “du lịch balô”, vốn là những người đi du lịch rất tùng tiệm và
tiết kiệm.
Để có một tour Bhutan hơn một tuần, khách phải nộp cho nguồn
thu của đất nước Bhutan hơn 2.000 USD, cộng với vé bay khứ hồi từ Bangkok hay
Kalkota đến Paro của Hãng Drukair tròm trèm 1.000 USD nữa là gần 3.000 USD.
Với số tiền ấy, nếu không vì một hấp lực đặc biệt từ đất
nước này, người ta sẽ lựa chọn một chuyến châu Âu hay Mỹ chứ không phải đến xứ
sở chỉ có núi đồi cây cỏ và những tu viện lọt thỏm giữa điệp trùng thăm thẳm
Himalaya.
Bởi bài học “du lịch balô”, người Bhutan cũng rút kinh
nghiệm từ xứ sở láng giềng Nepal, và mặc cho bất cứ xứ nào thả cửa nhằm tăng số
lượng du khách, Bhutan vẫn đi theo cách mà người Việt thường nói (nhưng ít khi
làm) là “quý hồ tinh bất quý hồ đa”, cần ít mà tinh túy hơn là có nhiều!
Chưa nói gì chuyện tiêu xài, chỉ riêng việc thả cửa này chắc
chắn chuyện cấm thuốc lá của Bhutan sẽ... phá sản. Bhutan tự lượng sức mình,
cân đối năng lực phục vụ, năng lực quản lý, và trên hết là để bảo vệ bản sắc
văn hóa của mình!
Đâu chỉ là chuyện chọn lọc du khách, Bhutan cũng rất biết
cách để du khách chi tiêu và mang về xứ sở họ những giá trị văn hóa của Bhutan.
Ngay buổi sáng đầu tiên đến Thimphu, thủ đô Bhutan, chúng tôi được đưa đến thăm
học viện quốc gia về dạy nghề mỹ thuật và thủ công mỹ nghệ (gọi là Zorig
Chusum) với 13 ngành học.
Những học viên là thanh thiếu niên sẽ được những nghệ nhân
bậc thầy truyền dạy những kinh nghiệm và bí quyết về mỹ thuật và mỹ nghệ trong
sáu năm, và sản phẩm của những học viên này sẽ không chỉ được bày bán tại quầy
hàng của học viện mà còn cung cấp cho những cửa hàng bán đồ lưu niệm cho du
khách ở các trung tâm du lịch. Một quy trình vừa bảo tồn được văn hóa, vừa
truyền nối được bí quyết tinh hoa nghề nghiệp, vừa giáo dục cho con em biết yêu
quý văn hóa xứ sở và vừa thu được tiền của du khách.
Với Bhutan, bảo vệ văn hóa không chỉ ở chuyện gìn giữ tôn
tạo các dzong hay chọn lọc du khách, truyền nối các giá trị truyền thống,
chuyện quy định bắt buộc với quốc phục là một thí dụ về sự “tự vệ” của Bhutan.
Đàn ông ở đây với trang phục gho, là một áo choàng với đai thắt ngang bụng,
phần áo phía trên đai thắt khi kéo thụng xuống sẽ thành chiếc túi đựng rất tiện
dụng, bên trong có thể mặc áo lót (áo phông), chân đi giày và vớ (tất) cao đến
đầu gối. Khi trời nóng có thể lột phần trên để lộ áo phông. Phụ nữ mặc kira gồm
váy phủ chấm gót và áo dài tay. Với quy định quốc phục này, nhiều người không
thuộc tộc Drupkpa đã phải rời khỏi Bhutan vào đầu thập niên 1990.
Kỳ 4:
Khúc ca thái bình
TT - Cũng như bạn có
thể gặp ở bất cứ một bãi cỏ đầu làng nào đó ở xứ mình luôn có những đứa trẻ
biến vuông cỏ thành sân bóng đá, ở Bhutan, những “trường đua” dành cho các cung
thủ có thể gặp bất cứ đâu trên đất nước này. Không nhớ hết chúng tôi đã nhìn
thấy bao nhiêu sân bắn cung trong những ngày ở Bhutan. Có thể nằm ngay cạnh sân
vận động ở thủ đô, trường bắn được xây gờ tường bằng đá làm nơi bảo vệ cho các
cung thủ, nhưng cũng có thể đấy chỉ là một gò đất được đắp lên làm nơi ẩn
tránh.
Hình ảnh quen thuộc ở
đất nước Bhutan – Cung thủ say mê với trò bắn cung.
Ảnh: Lê Đức Dục.
Mừng chiến thắng
của... đối phương
Bãi thi đấu bắn cung bao giờ cũng có một khoảng cách từ đầu
này tới đầu kia chừng 150m, chia làm hai phía, mỗi phía có bia là tấm xốp trắng
kẻ những vòng tròn bao quanh hồng tâm, có dựng tường bằng gạch, gỗ, hay bằng
đất để các cung thủ nấp vào đó tránh tên bay chệch quá xa. Hình như đã là đàn
ông Bhutan thì ai cũng phải biết bắn cung.
Hình ảnh những cung thủ đủ mọi lứa tuổi, trong trang phục
truyền thống giương cánh cung dũng mãnh với mũi tên xé gió lao đi cắm vào hồng
tâm của tấm bia có lẽ là hình mẫu người đàn ông lý tưởng trong mắt phụ nữ
Bhutan. Nhưng với chúng tôi, điều đẹp nhất lại là tiếng hát của những cung thủ
ấy. Mỗi khi đối phương từ phía bên kia bắn sang mà mũi tên trúng vào bia, những
người đàn ông của phía bên này lại cầm tay nhau reo mừng nhảy múa hát hò vừa để
báo cho phía bên kia biết mũi tên đã trúng đích và hát lên cũng là để chúc mừng
chiến thắng của đối phương. Sau đó, người vừa bắn tên trúng đích sẽ được thưởng
một dải lụa màu giắt vào thắt lưng. Cung thủ nào được nhiều dải lụa càng chứng
tỏ tài năng của mình.
Trên những mái đồi hay đồng cỏ, gió miền cao ràn rạt thổi
như vậy, nhưng thật kỳ lạ, những mũi tên của những cung thủ xứ này cứ bạt gió
cắm phập vào hồng tâm của bia ở khoảng cách 150m. Đâu chỉ là một trò thể thao
giải trí, với đôi cánh tay chắc khỏe, sự tính toán khéo léo, ánh mắt tinh anh,
những cung thủ này chính là hậu duệ của những thế hệ tiền nhân Bhutan đã nhiều
lần đánh bại sự xâm lược của lân bang qua hàng thế kỷ. Và Bhutan là đất nước
hiếm hoi ở Nam Á chưa từng bị ngoại bang đô hộ. Sức mạnh và sự khéo léo của một
cung thủ sẽ thật cần thiết khi đất nước cần họ tham gia vệ quốc.
Nụ cười thường nhật
Không chỉ có tiếng hát hân hoan của những cung thủ khiến
chúng tôi nhận ra niềm hạnh phúc cuộc sống của họ. Trước ngày chuẩn bị chinh
phục thiền viện Taktsang trên độ cao 3.140m ở Paro chúng tôi có một buổi “tập
dượt” để leo lên tu viện Khamsum Yuley nằm ở phía bắc cố đô Punakha. Vốn là một
chortens được xây dựng ngay trên ngọn núi cao, Khamsum Yuley là nơi thờ các vị
thần bảo vệ đất nước như ở ta có những ngôi chùa được xây nên để ký thác niềm
tin “trấn quốc”. Trên con đường đi lên tu viện này, chúng tôi cận cảnh hơn với
cuộc sống của người nông dân Bhutan. Ven chân núi vẫn là những thửa ruộng bậc
thang, quen thuộc như đã từng gặp trên những miền cao Tây Bắc. Ruộng không đủ
nhiều và đất đai dường như không được tốt tươi màu mỡ, nhưng trên những mảnh
ruộng bé tin hin bên triền núi ấy, tôi chứng kiến những nông dân đang vừa làm
đồng vừa hát.
Nhờ chàng hướng dẫn viên Leki Dorji, chúng tôi đã trò chuyện
với chị Wangmo, một nông dân 40 tuổi, đang gieo lúa trên những mảnh ruộng bé
chỉ bằng chiếc chiếu và cụ ông Penjor, 71 tuổi, đang chăn bò bên vệ đường, cùng
sống ở làng Yebisa (Punakha) ngay chân núi. Dĩ nhiên câu trả lời của họ với du
khách rằng cuộc sống còn khó nhọc nhưng họ vẫn cảm thấy hạnh phúc sẽ chỉ là một
câu trả lời “ngoại giao” nếu như không tận mắt thấy nụ cười an lạc trên gương
mặt của họ, những nông dân đang sống cuộc đời bình yên giữa thung lũng Paro
này. Từ đây nhìn lên tu viện Khamsum Yuley, họ cảm thấy như được bảo bọc trong
ánh sáng của đức Phật và nhà vua.
Cũng từ đây nhìn lên sẽ thấy những lá phướn đủ sắc màu tung
bay trên triền núi quanh tu viện. Ở Bhutan bạn có thể thấy khắp nơi những dây
phướn bằng vải ngũ sắc như thế giăng giăng quanh mái dzong hay từ đỉnh núi này
qua đỉnh núi khác, từ bên này sông qua bên kia sông... Những lá phướn viết bằng
thứ tiếng dzongkha của Bhutan với nét chữ nhảy múa như những vũ điệu tâm linh
rất riêng của cư dân bên triền Himalaya chứa đựng những ước mong và nguyện cầu
của họ. Với nhiều nông dân Bhutan, sắm được điện thoại di động giờ vẫn là điều
hơi xa xỉ, nhưng có lẽ hàng trăm năm trước khi điện thoại di động ra đời, những
người Bhutan đã có cách để chuyển thông tin của họ lên đến Thượng đế và đức
Phật. Những lá cờ phướn bằng vải chép đầy kinh nguyện ấy trong cơn gió ào ạt
trên núi xa sẽ tung bay và chuyển lên trời những điều họ muốn nói mà không cần
đến chiếc điện thoại di động hiện thân của văn minh thế kỷ 21 kia! Hạnh phúc từ
chính tâm linh mình, an lạc từ bên trong tâm hồn mình chính là hành trình của
những cư dân Bhutan.
Nhưng không thể nói về hạnh phúc chỉ với những khái niệm tâm
linh mơ hồ như thế. Giữa cõi người đầy sân si, thực tế những câu chuyện về vật
chất thông thường tác động vào thước đo hạnh phúc thì Bhutan vẫn điềm tĩnh giữ
một sự quân bình hiện diện trên những giá trị vật chất cụ thể, ví như chuyện xe
cộ, nhà cửa. Ở Bhutan thật khó mà nói được điều đó khi nhìn vào nhà cửa hay xe
cộ! Kiến trúc nhà ở của Bhutan tuân thủ theo quy định riêng, cùng khuôn mẫu kế
thừa như kiến trúc các dzong, có thể thấy nhà này to hơn nhà kia chút ít nhưng
không thể nhìn vào đấy để đánh giá khoảng cách giàu hay nghèo, xấu hay đẹp.
Tương tự như thế, trên đường phố của các đô thị lớn ở
Bhutan, chiếc ôtô gia đình thông dụng hầu hết là loại xe nhỏ bốn chỗ ngồi hiệu
Maruti của Hãng Suzuki (nhang nhác như Kia Morning ở Việt Nam), hiếm hoi lắm
mới thấy những chiếc Toyota Prado hay Santa Fe. Ngay một người bạn mới quen của
chúng tôi, tổng giám đốc Đài truyền hình Bhutan (Bhutan Broadcasting Service -
BBS), anh Tashi Dorji khi đến khách sạn đón chúng tôi đi cà phê, anh và gia
đình cùng đi trên một chiếc Hyundai i20 rất bình dân. Trang phục của người
Bhutan thì ai cũng như ai, luôn là những chiếc gho và kira truyền thống. Hình
như người Bhutan ít mắc phải hội chứng “phải hơn chúng nó” như nhiều xứ khác.
Kỳ 5:
Từ “vương quyền”
đến dân chủ
TT - Những ngày ở
Bhutan ấn tượng nhất với tôi là một công trình hoang tàn đổ nát nằm ở bắc thành
phố Paro: pháo đài Drukgyeldzong.
Những ngày ở Bhutan, chúng tôi được đi thăm thú khá nhiều
pháo đài và tu viện. Tuy nhiên pháo đài gây ấn tượng nhất với tôi không
phải là sự nguy nga của Thimphudzong, nét lãng mạn bên hàng hoa tím ở
Punakhadzong hay vẻ kiêu hãnh của tu việnTaktsang cheo leo trên đỉnh vực
thẳm... mà là một công trình hoang tàn đổ nát nằm ở bắc thành phố Paro: pháo đài
Drukgyeldzong.
Đức vua thứ tư Jigme
Singye Wangchuck trao vương miện truyền ngôi cho con trai - hoàng thái tử Jigme
Khesar Wangchuck. Ảnh L.Đ. Dục chụp lại từ ảnh tư liệu.
Ngụ ngôn dưới pháo
đài cổ
Pháo đài Drukgyeldzong được xây nên bởi Tenzin Drukdra theo
lệnh của Ngawang Namgyal, người có công thống nhất Bhutan, vào giữa thế kỷ 17
(1649) để kỷ niệm chiến thắng trước người Tạng. Lịch sử của quốc gia nhỏ bé bên
triền Himalaya này cho đến thế kỷ 17 vẫn là một nhà nước “chắp vá” gồm các thái
ấp của các lãnh chúa.
Dưới chân pháo đài cổ này là ngôi làng Drukgyel, một ngôi
làng đẹp và bình yên dưới bóng những cây vân sam và tuyết tùng cổ thụ. Từ đây
nhìn ra dãy Himalaya, phía biên giới với Tây Tạng (Trung Quốc) chỉ vài chục cây
số, có thể nhìn thấy những đỉnh núi phủ tuyết lấp lánh trong ánh nắng chiều.
Hình ảnh một ngôi làng đẹp và bình yên cạnh biên giới cũng là một ngụ ngôn của
câu chuyện Bhutan.
Không thể không nhắc đến một điều quan trọng trong ngoại
giao của Bhutan là đất nước này đã đóng cửa biên giới với Trung Quốc từ năm
1950, ngay sau khi Tây Tạng thuộc về Trung Quốc.
Sau này, khi hỏi han những người bạn Bhutan về chuyện đóng
cửa biên giới với Trung Quốc này có phải vì Bhutan không muốn bị biến thành một
Tây Tạng thứ hai, những người bạn Bhutan của tôi đã ý nhị trả lời rằng: “Bhutan
chúng tôi biết mình biết người”.
Có lẽ nhờ biết mình biết người nên quốc gia bên triền
Himalaya này đã có những bước đi rất riêng khiến cả thế giới sửng sốt, ví như
câu chuyện đất nước Bhutan này đã chuyển từ chế độ quân chủ chuyên chế sau 100
năm trị vì của triều đại Wangchuck sang chế độ quân chủ lập hiến thật... vui vẻ
và nhẹ nhàng với một kịch bản chưa từng có trong lịch sử thế giới hiện đại.
Bởi lịch sử Bhutan vốn từng tồn tại như những mảnh ghép từ
các lãnh chúa và thái ấp riêng biệt, mãi cho đến cuối thế kỷ 19, Ugyel
Wangchuck, người sau khi đã đánh bại các đối thủ và thống nhất đất nước, đã
được hội đồng các sư sãi và lãnh đạo các gia tộc lớn ở Bhutan bầu ông lên ngôi
vua vào năm 1907 tại Punakha, trở thành vị vua đầu tiên của dòng họ Wangchuck.
Hơn 100 năm qua, triều đại Wangchuck đến vị vua trẻ Jigme Khesar Wangchuck ngày
nay là đời vua thứ năm.
Khi nhà vua đòi...
dân chủ!
Câu chuyện về sự chuyển đổi thể chế chính trị ở Bhutan đã
làm tốn giấy mực của khá nhiều hãng tin và nhiều tờ báo lớn trên thế giới vào
tháng 3-2008.
Trong khi để đến được dân chủ nhiều quốc gia phải trải qua
rất nhiều binh đao máu lửa và khát vọng dân chủ thường khởi phát từ quảng đại
quần chúng thì Bhutan dường như ngược lại, khởi xướng khát vọng này và truyền
đến khắp nhân dân lại từ đức vua và hoàng gia!
“Khi ấy, người dân Bhutan chúng tôi không hề mong mỏi sự
thay đổi này, chúng tôi đã có một đức vua biết thương yêu và hết lòng chăm lo
cho dân - đấy là Tashi đang nói về vị vua thứ tư là Jigme Singye Wangchuck -
Suốt 34 năm trị vì của đức vua, thay vì xây dựng cung điện hay tích lũy tài
sản, nhà vua đã tập trung mở mang đường sá, xây dựng trường học và bệnh viện,
những đứa trẻ được đến trường không phải đóng học phí, những người bệnh không
phải đóng viện phí và được chữa chạy một cách tốt nhất, vậy thì “dân chủ” làm
gì nữa?”.
Đấy cũng là lý do của hầu hết cử tri Bhutan trước cuộc bầu
cử, thậm chí những cuộc tập dượt bầu cử cũng được thực thi cho nhân dân làm
quen dần, hai chính đảng được thành lập để tranh cử, những cuộc biểu tình trên
đường phố để ủng hộ các đảng đã chia thành “phe phái” với những tiếng hô khẩu
hiệu ồn ào đã khiến những người dân Bhutan hiền hòa, quen với sự tĩnh lặng
không hề mong ước “dân chủ” một chút nào.
Tuy nhiên, là những thần dân yêu kính nhà vua, tất nhiên họ
sẽ tuân theo lời kêu gọi của hoàng thượng dù thật lòng ai cũng nghĩ: Chúng ta
đã có một đấng minh quân tận tụy lo cho dân, không hề mong gì hơn thế, vậy thì
dân chủ mà làm gì!
Câu chuyện về tiến trình dân chủ ở Bhutan chiếm phần lớn
cuộc trò chuyện giữa chúng tôi và Tashi tại một quán cà phê được xem là cổ nhất
ở thủ đô Thimphu, quán vốn do một người Thụy Sĩ đã đến Bhutan từ mấy chục năm
trước và gầy dựng nên. Cho dẫu cà phê hay những thứ bánh ngọt rất “xịn” của
châu Âu đã có mặt từ hàng chục năm trước ở Bhutan, nhưng nền dân chủ ở đây lại
không đến sớm như thế.
Tashi đã giải thích cho tôi rằng chính nhà vua vì quá lo
lắng đến tương lai của đất nước nên đã thúc đẩy nhanh việc thiết lập một thể
chế dân chủ ở Bhutan, trước việc những thần dân của mình cho rằng đã có đức vua
anh minh, không cần phải thay đổi gì nữa, nhà vua đã giải thích rất giản dị:
Đúng là chúng ta đang ổn định và phát triển, nhà vua và hoàng gia hết lòng chăm
lo cho dân chúng, nhưng liệu một ngày nào đó những ông vua tiếp theo có thật sự
thông minh và giỏi giang, thật sự tận tâm và nhiệt huyết lo cho đất nước, cho
nhân dân? Bởi thế, một chính thể dân chủ chính là để phòng ngừa những điều đó,
khi đó chính nhân dân sẽ bầu ra người lãnh đạo sáng suốt và tận tụy để làm cho
nhân dân hạnh phúc hơn, đất nước hiện đại hơn!
Đã năm năm, kể từ ngày bầu cử 24-3-2008, Bhutan đang trở
thành một quốc gia dân chủ non trẻ nhất thế giới.
Vị vua thứ tư Jigme Singye Wangchuck (ở ngôi từ năm
1972-2006) là người đã có câu nói nổi tiếng: “Không lãnh tụ nào được lựa chọn
bằng nối dõi tông đường mà phải bằng công lao của mình”. Thật ngạc nhiên khi
câu nói có tầm vóc một danh ngôn ấy không phải từ một nhà dân chủ nào mà lại là
từ một ông vua Bhutan, người lẽ ra phải bảo vệ truyền thống “cha truyền con
nối”.
Vua Jigme Singye đã nói câu đó vào năm 1996, và hơn mười năm
sau, năm 2006, khi ông tuyên bố thoái vị, nhường ngôi cho con trai là Jigme
Khesar Wangchuck, trở thành vị vua thứ năm của Bhutan, vị vua trẻ này sẽ thực
hiện công cuộc dân chủ cho đất nước mình bằng việc đi bộ gần một tháng trời qua
những làng mạc trên non cao. Chính vua đã gặp gỡ các thần dân của mình để vận
động mọi người tham gia vào cuộc bầu cử quốc hội đầu tiên vào ngày 24-3-2008,
chuyển Bhutan từ chế độ quân chủ chuyên chế sang quân chủ lập hiến, thủ tướng
sẽ đứng đầu quốc gia và nhà vua lúc này chỉ đóng vai trò cố vấn.
Kỳ 6:
Tiếng gầm của rồng
sấm
TT - Người Bhutan gọi
đất nước mình là Druk Yul - nghĩa là miền đất của rồng sấm (Thunder Dragon).
Hình ảnh con rồng không chỉ hiện diện trên quốc kỳ Bhutan, một con rồng trắng
kiêu hãnh trên lá cờ chia theo đường chéo với một nửa màu vàng và nửa kia màu
đỏ cam.
Thủ đô Thimphu nổi tiếng bởi đây không có đèn tín hiệu giao thông.
Ảnh L.Đ. Dục
Ảnh L.Đ. Dục
Ở Bhutan hầu như từ druk (rồng) có thể gặp khắp nơi nơi. Ghé
đến những hiệu sách ở Bhutan, tôi chú ý đến một cuốn sách có cái tên rất gợi:
Bhutan - the roar of the thunder dragon (Bhutan - tiếng gầm của rồng sấm), tác
giả cuốn sách này là tiến sĩ Lyonpo Om Pradhan, một trí thức lớn của Bhutan.
Cuộc gặp giữa Nobel
kinh tế và... GNH
Có lẽ nói rồng sấm Bhutan đang “gầm” là một động từ hơi mạnh
và hơi xa lạ với tính cách vốn bình lặng của xứ sở này.
Nhưng nếu nói Bhutan đang “gầm” cũng không sai, bởi con
đường Bhutan lặng lẽ đi lên từ... mấy chục năm qua, trong một quốc gia khá kín
đáo và biệt lập, thấm đẫm tinh thần Phật giáo, không ngờ triết lý phát triển ấy
của Bhutan lại rất trùng hợp với ý tưởng của những giáo sư hàng đầu được trao
giải Nobel kinh tế năm 2002!
Từ năm 1972, Bhutan bắt đầu phát triển theo mục tiêu hướng
tới “Tổng hạnh phúc quốc gia” (GNH) khi khái niệm này được đưa ra lần đầu, đúng
30 năm sau, giải Nobel kinh tế năm 2002 được trao cho hai nhà khoa học Mỹ, giáo
sư Vermon Smith và Daniel Kahneman, với công trình “Ảnh hưởng của tâm lý tới
quyết định chi tiêu của người dân và những bằng chứng thực nghiệm từ thập kỷ
1960 đến nay”.
Nghiên cứu này vạch ra hướng mới về mối quan hệ giữa tâm lý
học và kinh tế học. Và con đường mà Bhutan đã đi từ bấy lâu nay, trước khi có
giải Nobel kinh tế 2002 kia, là một sự đồng điệu như thế, giữa kinh tế học và
tâm lý học.
Để có thể hiểu hơn những dòng đánh giá trong Wikipedia về
nền kinh tế của Bhutan “GNH quan trọng hơn GDP - lời tuyên bố này dường như đã
đi trước những khám phá gần đây của các nhà tâm lý học kinh tế phương Tây, gồm
cả người đã đoạt giải thưởng Nobel 2002, với vấn đề về sự liên quan giữa mức độ
thu nhập và hạnh phúc”, tôi đã lần mò vất vả đọc lại các khái niệm hàn lâm của
Nobel kinh tế 2002 với rất nhiều thí nghiệm thực chứng của D. Kahneman và V.
Smith để tạo ra “lý thuyết viễn cảnh” - cơ sở để hai giáo sư này được trao giải
Nobel kinh tế.
Căn cứ của lý thuyết này là mối quan hệ giữa kinh tế học và
tâm lý học sẽ giúp con người tránh được những quyết định thiếu nhất quán, cảm
tính, chủ quan để đạt được sự chắc chắn.
Chiếc gho, kira và
những bản nhạc rock...
Một đêm ở lại thủ đô Thimphu, chúng tôi nhờ anh chàng hướng
dẫn viên Leki Dorji dẫn đến một “điểm vui chơi” hơi ồn ào một tí ở đây.
Dù len lách qua nhiều hẻm phố, nhưng “điểm vui chơi” ấy vẫn
quá hiền hòa, nhạc có thể với tiết tấu hơi mạnh, các cô gái Thimphu trẻ trung
đã nhảy rất “bốc” trên sân khấu nhưng ở đó không có “show hàng” hay “quấn cột”,
không có thuốc lá (đương nhiên) và với điệu nhảy mang dáng vẻ một bài dân vũ
trên non cao ấy, được các cô gái biểu diễn trong bộ y phục kira truyền thống
kín mít từ gót chân lên... đến cổ.
Rời “điểm vui chơi”, trong cơn mưa đêm, đi qua phố Norzin
Lam - đại lộ chính của thủ đô Thimphu - vẫn đầy những hàng ôtô rất trật tự đi
qua vòng xuyến trung tâm.
Ở đó có một cái “bốt” mà vào ban ngày chúng tôi đi qua vẫn
thấy chàng cảnh sát trẻ đeo găng trắng điều khiển hàng đoàn xe cộ lưu thông
trong một “vũ điệu” lạ lùng thay cho đèn tín hiệu.
Vài năm trước, tại vị trí này một trụ đèn tín hiệu giao
thông đã được dựng lên nhưng rồi người dân thủ đô Thimphu cho rằng điều khiển
xe theo tín hiệu đèn không thuận lợi như khi chưa... có đèn, vì thế cột đèn bị
dời đi, thay vào đó vẫn là cái bục để anh cảnh sát điều khiển các luồng xe qua
lại bằng tay (nhờ thế Bhutan đã giữ thêm một kỷ lục nhất thế giới khác: là thủ
đô duy nhất trên thế giới không có hệ thống đèn tín hiệu giao thông).
Hệ thống tín hiệu của thế giới hiện đại ấy không (hoặc chưa)
thể phát huy vai trò tích cực của nó ở đất nước này, nhưng hệ thống truyền hình
và Internet thật sự đã có ảnh hưởng.
“Truyền hình luôn gắn liền với quảng cáo và quảng cáo thì
luôn thôi thúc người ta tiêu thụ, tiêu thụ, tiêu thụ... Sự thúc ép tiêu thụ
không giới hạn ấy từ các chương trình quảng cáo khiến ta phải tự hỏi: cứ tiêu
thụ như thế sẽ cạn kiệt mất nguồn tài nguyên vốn có hạn, rồi từ đó dẫn đến hủy
hoại môi trường”. Nỗi âu lo ấy được bày tỏ không phải từ một người dân mà là
một người đứng đầu cơ quan truyền hình Bhutan, anh Tashi Dorji mà chúng tôi may
mắn được quen biết qua sự giới thiệu của một người bạn.
Chia sẻ nỗi lo ấy, chính những người làm truyền hình Bhutan
cũng tìm cách cân bằng và hóa giải sự xâm thực của những kênh truyền hình ảnh
hưởng đến những giá trị văn hóa truyền thống của đất nước mình.
Những câu chuyện về Bhutan mà chúng tôi đọc được từ các
phóng viên nước ngoài thường luôn đề cập sự xuất hiện của những đứa trẻ “thế hệ
mới” ở Bhutan, thay vì trang phục gho truyền thống, chúng thích mũ trùm đầu và
quần jean, mê những ban nhạc rock vẫn biểu diễn trên các kênh truyền hình nước
ngoài. Đấy là điều bình thường với bất cứ đứa trẻ nào trên thế giới, bởi những
cái mới lạ luôn luôn có hấp lực với chúng.
Nhưng buổi trưa đầu tiên chúng tôi đến thủ đô Thimphu lại
nhằm vào ngày thứ bảy, đúng phiên chợ cuối tuần. Trên cái sân khấu gỗ ở tầng
hai của ngôi chợ thủ đô, chúng tôi đã gặp những thanh thiếu niên vui chơi thật
hồn nhiên.
Nhiều thiếu niên mang giày Nike, quần Adidas, áo gilê và
trình diễn những điệu nhảy có lẽ được học từ truyền hình. Mấy em bé gái, có em
mang kira, có em mang quần len bó nhảy say sưa trên nền nhạc nhẹ sôi động,
không gian chợ ngập tràn niềm vui tươi trẻ chứ không gợn chút âu lo nào về cái
gọi là “xâm thực văn hóa”.
Cố nhiên, trước cơn lốc “toàn cầu hóa”, làm sao Bhutan không
thể không lo ngại, cho dù đất nước này là nơi duy nhất bảo tồn được Phật giáo
Himalaya nguyên thủy. Đạo Phật cùng với lòng yêu kính hoàng gia là những điều
cốt tử trong đời sống tinh thần của họ.
Người Bhutan tự xưng nơi họ sinh sống là vùng đất của sự
sinh sôi, nảy nở, “nơi ở của rồng thần”. Mỗi năm vào khoảng tháng 5, 6 gió mùa
từ Ấn Độ Dương mang nhiều hơi nước, men theo vịnh Bangladesh thổi ngược lên,
sau đó thổi vào các con sông của Bhutan đi lên hướng bắc và bị chắn bởi dãy núi
tuyết Himalaya.
Trong khoảnh khắc sấm chớp đùng đùng, mưa như trút nước, tựa
như trăm ngàn con rồng trở về biển cả, những thác nước muôn trượng ào ào đổ
xuống, tên gọi “quốc gia của rồng sấm” có nguồn gốc từ đó.
Kỳ cuối:
Ân tình Việt nơi
xứ sở hạnh phúc
TT - Trước khi đến
Bhutan, chúng tôi cố công tìm xem những mối liên hệ đã có giữa Việt Nam với
Bhutan, và danh chính ngôn thuận trên văn bản là bản tin từ Bộ Ngoại giao cho
biết: ngày 19-1-2012, tại trụ sở phái đoàn đại diện thường trực Việt Nam bên
cạnh Liên Hiệp Quốc (LHQ) ở New York, đại sứ Việt Nam tại LHQ Lê Hoài Trung và
đại sứ Bhutan Lahtu Wangchuck đã ký thông cáo chung về thiết lập quan hệ ngoại
giao giữa Việt Nam và Bhutan.
Một góc thủ đô Thimphu
của Bhutan – Kiến trúc nhà cửa của thành phố sạch sẽ
và hài hòa với thiên
nhiên. Ảnh L.Đ. Dục.
Tuy nhiên trước khi những phép tắc ngoại giao cấp nhà nước
được ký kết, giữa Bhutan và Việt Nam đã có những câu chuyện ân tình rất cảm
động.
Cơ duyên miền đất
Phật
Năm 2000, Hội chợ triển lãm thế giới (Expo 2000) diễn ra ở thành phố Hannover, Đức, Bhutan cũng tham gia Expo 2000 này và để dựng lên gian trưng
bày tại Hannover trong hình dáng một tòa dzong với kiến trúc đặc trưng của đất
nước mình, Bhutan đưa một kíp thợ 20 người đến đây làm việc trong nửa năm trời.
Dù thi công một công trình đại diện quốc gia ở một hội chợ tầm cỡ thế giới
nhưng lo chỗ ăn ở đi lại ngần ấy con người trong nửa năm trời để làm việc,
trong điều kiện mùa đông rét mướt của nước Đức là chuyện cũng không dễ. May
sao, như một cơ duyên của vương quốc Phật giáo bên triền Himalaya này và một
ngôi chùa Việt lại nằm tận nước Đức xa xôi: ngay trên con phố sẽ dựng tòa dzong
của Bhutan, chùa Viên Giác trên phố Karlsruher chỉ cách vị trí khu triển lãm
chừng mười phút đi bộ.
Và thế là sau khi có sự ngỏ lời của đại diện phía Bhutan,
các sư tăng của nhà chùa Việt hoan hỉ đón tiếp kíp thợ 20 người của Bhutan đến
tá túc miễn phí hơn nửa năm trời, họ ăn ở sinh hoạt ngay tại chùa để thuận tiện
cho việc hoàn thành công trình trưng bày của nước mình. Expo 2000 ấy, hoàng hậu
Bhutan sang Đức dự khai mạc, khi được biết sự giúp đỡ tận tình từ ngôi chùa
Việt trên đất Đức, bà đã đến thăm chùa Viên Giác và sau đó những sư thầy từ
ngôi chùa Việt trên đất Đức này đã đến thăm Bhutan trong sự đón tiếp trọng thị
của hoàng gia.
Cũng liên quan đến hoàng gia, trong lễ tấn phong nhà vua trẻ
Jigme Khesar Namgyel Wangchuck, có một người Việt đã viết như thế này sau khi
qua Bhutan dự lễ: “Và thằng bạn học năm xưa của tôi ở Oxford vừa lên làm vua”.
Tình bạn ấy đã được nhắc nhiều trong những bài viết của anh về vị vua thứ 5 của
xứ Bhutan - vốn là bạn học của anh ở Đại học Oxford danh tiếng nước Anh! Nhắc
đến không phải vì người bạn ấy là vua của một xứ sở được mệnh danh là “hạnh
phúc nhất thế giới” mà vì có những câu chuyện cảm động về nhà vua trẻ với thần
dân của mình ít người được biết: “Hôm làm đám cưới ở cố đô Punakha xong, 7g
sáng hôm sau vua và hoàng hậu Jetsun Pema đã lên xe trở về thủ đô Thimphu cách
đó chừng hai giờ lái xe. Vậy nhưng phải đến 23g khuya cả hai mới về đến cung,
vì trên đường về cứ mỗi khi có người dân ra đường đứng đón là cả hai lại xuống
xe để có thể đến tận nơi cầm tay từng người một cảm ơn thăm hỏi. Không phải chỉ
một bên đường mà cả hai bên cùng một lúc, không bỏ sót một ai...”.
Quỳnh, một người bạn của tôi đang làm việc ở Singapore, biết
tôi đi Bhutan đã giới thiệu cho tôi gặp Pema, một cô bạn thân thiết của Quỳnh
trong thời gian cùng học ở Singapore. Pema hiện phụ trách phòng nghiên cứu
chính sách tiền tệ của Ngân hàng Trung ương Bhutan. Vậy nhưng khi tôi đến
Bhutan thì vì công việc đột xuất, Pema lại đi công tác tại một địa phương giáp
biên giới với Ấn Độ nên cô đã nhờ chị gái của mình là Kesang đến khách sạn đón
chúng tôi đi chơi. Dù cuộc hội ngộ phải qua những liên lạc loanh quanh lòng
vòng như vậy, nhưng thật bất ngờ khi chúng tôi lên thủ đô Thimphu, Kesang đã
đến đón chúng tôi cùng với cả gia đình nhỏ của mình. Cuộc gặp ấy thật sự để lại
trong chúng tôi những ấn tượng sâu đậm về tình người ở Bhutan, chan chứa và
thân thiện mà không hề có những cảm giác dè chừng xa lạ. Và có lẽ sẽ thiếu sót
nếu trong những câu chuyện về Bhutan này, chúng tôi không nhắc đến Kesang và
gia đình cô với lòng biết ơn của mình về tình cảm mà gia đình cô đã dành cho
chúng tôi khi lần đầu đến với đất nước xa xôi này.
Ly ara và chiếc máy
cày Việt
Trước khi rời Bhutan, sau một ngày vất vả leo lên tu viện
Taktsang ở độ cao hơn 3.200m, đôi chân dường như đã rã rời, lúc xuống núi, anh
chàng hướng dẫn viên Leki nói với chúng tôi: “Chốc nữa sẽ cho các bạn đến nhà
một nông dân Bhutan để tận mắt thấy hạnh phúc giản dị của họ”. Xe đưa chúng tôi
ra ngoại ô phố Paro, ở một ngôi làng nhỏ có tên Shami. Để trút bỏ những mệt
nhọc, chúng tôi được đón tiếp bằng những bồn gỗ chứa đầy nước nóng bốc hơi nghi
ngút. Phía ngoài gian nhà với những chậu gỗ kia là bếp lửa với những viên đá to
được nung nóng trong lò than đỏ rực. Những viên đá ở dưới chân Himalaya với mùa
đông phủ tuyết và mùa hè nắng nung này tích lũy khí vị trời đất trong những
phân tử của nó, sau khi nung nóng được thả vào bồn gỗ chứa đầy nước. Những cư
dân bên triền Himalaya này cho đến bây giờ vẫn chống chọi lại mùa đông bằng
những bếp lửa như thế, những viên đá nung đỏ như thế, và có lẽ núi cũng truyền
cho họ sức mạnh của mình từ những sinh hoạt giản dị như thế!
Giữa cơn gió cuối chiều hun hút buôn buốt, trong căn bếp của
gia đình người nông dân ở ngoại ô Paro ấy, chúng tôi còn được thưởng thức một
thứ đồ uống rất đặc sắc từ chính tay chị chủ nhà pha chế với rượu ara (như rượu
đế của xứ mình, chưng cất từ ngô hay gạo). Cho một ít rượu ara vào bình đun
nóng lên, cho thêm một ít bơ và một quả trứng gà vào đấy, khi thứ hỗn hợp kia
bắt đầu sôi thì rót vào ly và uống nóng, vị bơ béo xua tan giá rét, cùng với
hương thơm của rượu và vị bùi của trứng.
Và bất ngờ hơn cả ly rượu ara pha với bơ và trứng gà kia là
khi chị chủ nhà biết chúng tôi đến từ Việt Nam, chị đã nói một tràng tiếng
Bhutan rất dài với vẻ mặt hoan hỉ, chàng hướng dẫn viên Leki đã dịch lại cho
chúng tôi biết chị rất hài lòng với những chiếc... máy cày của Việt Nam! Quá
đỗi bất ngờ nên chúng tôi hỏi thêm lần nữa: Vì sao lại có máy cày Việt Nam ở
Bhutan này? Sau một hồi hỏi han, hóa ra Bhutan đã được Nhật tài trợ khá nhiều
dự án để phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó có việc trang bị cho
nông dân Bhutan những chiếc máy cày loại nhỏ (mà chúng tôi đoán là loại máy cày
“công nông” chừng 12 sức ngựa). Sở dĩ là máy cày Việt Nam bởi vì nhà tài trợ
(Nhật Bản) không muốn Bhutan mua máy của những quốc gia khác. Giữa miền đất xa
xôi dưới chân Himalaya này, những nông dân ở một làng quê hẻo lánh biết tới quê
hương đất nước của mình cũng là một niềm vui thật đáng nhớ với chúng tôi trong
những ngày đến với Bhutan...
Tháng 05/2013.
Lê Đức Dục.
Nguồn: Tuổi
Trẻ Online.
***TP st
No comments:
Post a Comment