GIẢNG VỀ SỰ KẾT HỢP
CHUNG
Tôi được nghe như vầy:
Một thời, đại đức Ānanda ngụ tại Kosambī, tu viện Ghosita. Chính ở tại nơi ấy,
đại đức Ānanda đã bảo các vị tỳ khưu rằng:
- Này các đại đức tỳ
khưu.
- Thưa đại đức. Các vị
tỳ khưu ấy đã đáp lại đại đức Ānanda.
Đại đức Ānanda đã nói
điều này:
- Này các đại đức, bất
cứ vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni nào tuyên bố về phẩm vị A-la-hán trong sự hiện
diện của tôi là do toàn bộ bốn đạo lộ hoặc do một đạo lộ nào đó của bốn đạo lộ
ấy? Do bốn (đạo lộ) gì?
- Này các đại đức, ở đây
vị tỳ khưu tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước. Khi vị ấy đang tu tập
minh sát có chỉ tịnh đi trước, đạo lộ được hình thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn
luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập,
làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được
chấm dứt (đối với vị ấy).
Này các đại đức, hơn nữa
vị tỳ khưu tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước. Khi vị ấy đang tu tập
chỉ tịnh có minh sát đi trước, đạo lộ được hình thành (cho vị ấy). Vị ấy rèn
luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang rèn luyện, tu tập,
làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được
chấm dứt (đối với vị ấy).
Này các đại đức, hơn nữa
vị tỳ khưu tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung. Khi vị ấy đang tu
tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung, đạo lộ được hình thành (cho vị ấy). Vị
ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang rèn luyện, tu
tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm
được chấm dứt (đối với vị ấy).
Này các đại đức, hơn nữa
(có trường hợp) tâm của vị tỳ khưu bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với
các pháp. Này các đại đức, lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên
nhất, được định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành
cho vị ấy. Vị ấy rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy. Khi vị ấy đang
rèn luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ,
các ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy).
Này các đại đức, bất cứ
vị tỳ khưu hoặc tỳ khưu ni nào tuyên bố về phẩm vị A-la-hán trong sự hiện diện
của tôi là do toàn bộ bốn đạo lộ này hoặc do một đạo lộ nào đó của bốn đạo lộ
ấy.
* * *
Tu tập minh sát có chỉ
tịnh đi trước là (có ý nghĩa) thế nào?
Trạng thái chuyên nhất
không tán loạn của tâm do tác động của sự thoát ly là định. Liên quan đến các
pháp được sanh lên ở định ấy, với ý nghĩa của sự quán xét về vô thường là minh
sát, với ý nghĩa của sự quán xét về khổ não là minh sát, với ý nghĩa của sự
quán xét về vô ngã là minh sát. Như thế là chỉ tịnh trước, minh sát sau. Vì thế
được gọi là "Tu tập minh sát có chỉ tịnh đi trước."
Tu tập: Có bốn sự tu tập: sự tu
tập các pháp đã được sanh lên tại nơi ấy với sự không vượt trội là yếu lý, sự
tu tập các quyền với nhất vị là yếu lý, sự tu tập với việc khởi động sự tinh
tấn (thích hợp) nhằm đạt đến giải thoát Niết Bàn là yếu lý, sự tu tập với sự
rèn luyện là yếu lý.
Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào?
Chánh kiến với sự nhận
thức là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh tư duy với sự gắn chặt (tâm
vào cảnh) là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh ngữ với sự gìn giữ là yếu
lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh nghiệp với nguồn sanh khởi là yếu lý, là
đạo lộ được hình thành. Chánh mạng với sự trong sạch là yếu lý, là đạo lộ được
hình thành. Chánh cần với sự ra sức là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh
niệm với sự thiết lập là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh định với sự
không tản mạn là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Đạo lộ được hình thành là
(có ý nghĩa) như thế.
Vị ấy rèn luyện, tu tập,
làm cho sung mãn đạo lộ ấy: Rèn luyện là (có ý nghĩa) thế nào?
Trong khi hướng tâm, vị
ấy rèn luyện. Trong khi nhận biết, vị ấy rèn luyện. Trong khi nhận thấy, vị ấy
rèn luyện. Trong khi quán xét lại, vị ấy rèn luyện. Trong khi khẳng định tâm,
vị ấy rèn luyện. Trong khi hướng đến đức tin, vị ấy rèn luyện. Trong khi ra sức
tinh tấn, vị ấy rèn luyện. Trong khi thiết lập niệm, vị ấy rèn luyện. Trong khi
tập trung tâm, vị ấy rèn luyện. Trong khi nhận biết bởi tuệ, vị ấy rèn luyện.
Trong khi biết rõ điều cần được biết rõ, vị ấy rèn luyện. Trong khi biết toàn
diện điều cần được biết toàn diện, vị ấy rèn luyện. Trong khi dứt bỏ điều cần
được dứt bỏ, vị ấy rèn luyện. Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị
ấy rèn luyện. Rèn luyện là (có ý nghĩa) như thế.
Tu tập: Tu tập là (có ý nghĩa)
thế nào?
Trong khi hướng tâm, vị
ấy tu tập. Trong khi nhận biết, vị ấy tu tập. Trong khi nhận thấy, vị ấy tu
tập. Trong khi quán xét lại, vị ấy tu tập. Trong khi khẳng định tâm, vị ấy tu
tập. Trong khi hướng đến đức tin, vị ấy tu tập. Trong khi ra sức tinh tấn, vị ấy
tu tập. Trong khi thiết lập niệm, vị ấy tu tập. Trong khi tập trung tâm, vị ấy
tu tập. Trong khi nhận biết bởi tuệ, vị ấy tu tập. Trong khi biết rõ điều cần
được biết rõ, vị ấy tu tập. Trong khi biết toàn diện điều cần được biết toàn
diện, vị ấy tu tập. Trong khi dứt bỏ điều cần được dứt bỏ, vị ấy tu tập. Trong
khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy tu tập. Tu tập là (có ý nghĩa) như
thế. Tu tập là (có ý nghĩa) như thế.
Làm cho sung mãn: Làm cho sung mãn là (có
ý nghĩa) thế nào?
Trong khi hướng tâm, vị
ấy làm cho sung mãn. Trong khi nhận biết, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi
nhận thấy, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi quán xét lại, vị ấy làm cho sung
mãn. Trong khi khẳng định tâm, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi hướng đến đức
tin, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi ra sức tinh tấn, vị ấy làm cho sung mãn.
Trong khi thiết lập niệm, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi tập trung tâm, vị
ấy làm cho sung mãn. Trong khi nhận biết bởi tuệ, vị ấy làm cho sung mãn. Trong
khi biết rõ điều cần được biết rõ, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi biết toàn
diện điều cần được biết toàn diện, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi dứt bỏ
điều cần được dứt bỏ, vị ấy làm cho sung mãn. Trong khi tác chứng điều cần được
tác chứng, vị ấy làm cho sung mãn. Làm cho sung mãn là (có ý nghĩa) như thế.
Khi vị ấy đang rèn
luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các
ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy): Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được
chấm dứt là (có ý nghĩa) thế nào?
Do Đạo Nhập Lưu, ba sự
ràng buộc này được dứt bỏ là thân kiến, hoài nghi, sự cố chấp vào giới và nghi
thức, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm.
Do Đạo Nhất Lai, hai sự
ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục, sự ràng buộc của bất bình
có tính chất thô thiển, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và
bất bình ngủ ngầm có tính chất thô thiển.
Do Đạo Bất Lai, hai sự
ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất
bình có tính chất vi tế, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và
bất bình ngủ ngầm có tính chất vi tế.
Do Đạo A-la-hán, năm sự
ràng buộc này được dứt bỏ là ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ba
ngủ ngầm này được chấm dứt là ngã mạn ngủ ngầm, ái hữu ngủ ngầm, vô minh ngủ
ngầm
Các sự ràng buộc được
dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.
Sự chuyên nhất và sự
không tản mạn của tâm do tác động của sự không sân độc là định. Sự chuyên nhất
và sự không tản mạn của tâm do tác động của sự nghĩ tưởng về ánh sáng là định.
...(như trên)... Sự chuyên nhất và sự không tản mạn của tâm do tác động của hơi
thở vào có sự quán xét về từ bỏ do tác động của hơi thở ra có sự quán xét về từ
bỏ là định. Liên quan đến các pháp được sanh lên ở định ấy, với ý nghĩa của sự
quán xét về vô thường là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về khổ não là
minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về vô ngã là minh sát. Như thế là chỉ
tịnh trước, minh sát sau. Vì thế được gọi là "Tu tập minh sát có chỉ
tịnh đi trước."
Tu tập: Có bốn sự tu tập: sự tu
tập các pháp đã được sanh lên tại nơi ấy với sự không vượt trội là yếu lý, sự
tu tập các quyền với nhất vị là yếu lý, sự tu tập với việc khởi động sự tinh
tấn (thích hợp) nhằm đạt đến giải thoát Niết Bàn là yếu lý, sự tu tập với sự
rèn luyện là yếu lý.
Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào?
Chánh kiến với sự nhận
thức là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Chánh tư duy với sự gắn chặt (tâm
vào cảnh) là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. ...(như trên)... Chánh định với
sự không tản mạn là yếu lý, là đạo lộ được hình thành. Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) như thế.
Vị ấy rèn luyện, tu tập,
làm cho sung mãn đạo lộ ấy: Rèn luyện là (có ý nghĩa) thế nào?
Trong khi hướng tâm, vị
ấy rèn luyện. Trong khi nhận biết, vị ấy rèn luyện. ...(như trên)... Trong khi
tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy rèn luyện. Rèn luyện là (có ý nghĩa)
như thế.
Tu tập: Tu tập là (có ý nghĩa)
thế nào?
Trong khi hướng tâm, vị
ấy tu tập. Trong khi nhận biết, vị ấy tu tập. ...(như trên)... Trong khi tác
chứng điều cần được tác chứng, vị ấy tu tập. Tu tập là (có ý nghĩa) như thế.
Làm cho sung mãn: Làm cho sung mãn là (có
ý nghĩa) thế nào?
Trong khi hướng tâm, vị
ấy làm cho sung mãn. Trong khi nhận biết, vị ấy làm cho sung mãn. ...(như
trên)... Trong khi tác chứng điều cần được tác chứng, vị ấy làm cho sung mãn.
Làm cho sung mãn là (có ý nghĩa) như thế.
Khi vị ấy đang rèn
luyện, tu tập, làm cho sung mãn đạo lộ ấy, các sự ràng buộc được dứt bỏ, các
ngủ ngầm được chấm dứt (đối với vị ấy): Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được
chấm dứt là (có ý nghĩa) thế nào?
Do Đạo Nhập Lưu, ba sự
ràng buộc này được dứt bỏ là thân kiến, hoài nghi, sự cố chấp vào giới và nghi
thức, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là kiến ngủ ngầm, hoài nghi ngủ ngầm.
Do Đạo Nhất Lai, hai sự
ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục, sự ràng buộc của bất bình
có tính chất thô thiển, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và
bất bình ngủ ngầm có tính chất thô thiển.
Do Đạo Bất Lai, hai sự
ràng buộc này được dứt bỏ là sự ràng buộc của ái dục và sự ràng buộc của bất
bình có tính chất vi tế, hai ngủ ngầm này được chấm dứt là ái dục ngủ ngầm và
bất bình ngủ ngầm có tính chất vi tế.
Do Đạo A-la-hán, năm sự
ràng buộc này được dứt bỏ là ái sắc, ái vô sắc, ngã mạn, phóng dật, vô minh, ba
ngủ ngầm này được chấm dứt là ngã mạn ngủ ngầm, ái hữu ngủ ngầm, vô minh ngủ
ngầm
Các sự ràng buộc được
dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.
Tu tập minh sát có chỉ
tịnh đi trước là (có ý nghĩa) như thế.
* * *
Tu tập chỉ tịnh có minh
sát đi trước là (có ý nghĩa) thế nào?
Với ý nghĩa của sự quán
xét về vô thường là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét về khổ não là minh
sát, với ý nghĩa của sự quán xét về vô ngã là minh sát. Do Niết Bàn là đối
tượng của các pháp được sanh lên ở minh sát ấy, trạng thái chuyên nhất không
tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. Vì thế được
gọi là "Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước."
Tu tập: Có bốn sự tu tập:
...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.
Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế. ...(như trên)...
Các sự ràng buộc được
dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.
Với ý nghĩa của sự quán
xét sắc là vô thường là minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét sắc là khổ não là
minh sát, với ý nghĩa của sự quán xét sắc là vô ngã là minh sát. Do Niết Bàn là
đối tượng của các pháp được sanh lên ở minh sát ấy, trạng thái chuyên nhất
không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh sau. Vì thế
được gọi là "Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước."
Tu tập: Có bốn sự tu tập:
...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.
Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế. ...(như trên)...
Các sự ràng buộc được
dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.
Với ý nghĩa của sự quán
xét thọ ...(như trên)... tưởng ...(như trên)... các hành ...(như trên)... thức
...(như trên)... mắt ...(như trên)... lão tử là vô thường là minh sát, ...(như
trên)... lão tử là khổ não ...(như trên)... lão tử là vô ngã là minh sát. Do
Niết Bàn là đối tượng của các pháp được sanh lên ở minh sát ấy, trạng thái
chuyên nhất không tán loạn của tâm là định. Như thế là minh sát trước, chỉ tịnh
sau. Vì thế được gọi là "Tu tập chỉ tịnh có minh sát đi trước."
Tu tập: Có bốn sự tu tập:
...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.
Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế. ...(như trên)...
Các sự ràng buộc được
dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.
Tu tập chỉ tịnh có minh
sát đi trước là (có ý nghĩa) như thế.
* * *
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung là (có ý nghĩa) thế nào?
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo 16 biểu hiện: theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng), theo ý
nghĩa của hành xứ, theo ý nghĩa dứt bỏ, theo ý nghĩa buông bỏ, theo ý nghĩa
thoát ra, theo ý nghĩa ly khai, theo ý nghĩa an tịnh, theo ý nghĩa cao quý,
theo ý nghĩa được giải thoát, theo ý nghĩa của vô lậu, theo ý nghĩa vượt qua,
theo ý nghĩa của vô tướng, theo ý nghĩa của vô nguyện, theo ý nghĩa của không
tánh, theo ý nghĩa của nhất vị, theo ý nghĩa không vượt trội, theo ý nghĩa kết
hợp chung.
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng) là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận
là cảnh (đối tượng). Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của
sự quán xét có sự diệt tận là cảnh (đối tượng). Như thế, chỉ tịnh và minh sát
theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng) là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt
trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết
hợp chung theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng)."
Tu tập: Có bốn sự tu tập:
...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.
Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế. ...(như trên)...
Các sự ràng buộc được
dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và
minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của cảnh (đối tượng) là (có ý nghĩa) như
thế.
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa của hành xứ là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận
là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán
xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của
hành xứ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế,
được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa
của hành xứ."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa dứt bỏ là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang dứt bỏ) các uẩn, trạng thái
chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với
vị đang dứt bỏ các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang dứt bỏ) các uẩn,
minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh
và minh sát theo ý nghĩa dứt bỏ là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt
trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết
hợp chung theo ý nghĩa dứt bỏ."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa buông bỏ là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang buông bỏ
các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang buông bỏ) các uẩn, trạng thái
chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với
vị đang buông bỏ các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang buông bỏ) các
uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế,
chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa buông bỏ là có nhất vị, được kết hợp chung,
không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và
minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa buông bỏ."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa thoát ra là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang thoát ra
khỏi các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang thoát ra khỏi) các uẩn,
trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành
xứ. Đối với vị đang thoát ra khỏi các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang
thoát ra khỏi) các uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là
hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa thoát ra là có nhất vị,
được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu
tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa thoát ra."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa ly khai là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang ly khai
khỏi các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang ly khai khỏi) các uẩn,
trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành
xứ. Đối với vị đang ly khai khỏi các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang
ly khai khỏi) các uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là
hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa ly khai là có nhất vị, được
kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập
chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa ly khai."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa an tịnh là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, an tịnh, có
sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa
của sự quán xét là an tịnh có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh
sát theo ý nghĩa của an tịnh là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội
lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp
chung theo ý nghĩa an tịnh."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa cao quý là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, cao quý, có
sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh sát theo ý nghĩa
của sự quán xét là cao quý có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh
sát theo ý nghĩa của cao quý là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội
lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp
chung theo ý nghĩa cao quý."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa được giải thoát là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, được giải
thoát khỏi dục lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh,
minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là được giải thoát khỏi các vô minh lậu,
có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, sự ly tham ái khỏi các tham ái là sự giải
thoát của tâm, sự ly tham ái khỏi vô minh là sự giải thoát của tuệ, chỉ tịnh và
minh sát theo ý nghĩa của được giải thoát là có nhất vị, được kết hợp chung,
không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và
minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa được giải thoát."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô lậu là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định, vô lậu đối
với dục lậu, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô minh, minh
sát theo ý nghĩa của sự quán xét là vô lậu đối với vô minh lậu, có sự diệt tận
là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của vô lậu là có nhất
vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu
tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô lậu."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa vượt qua là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang vượt qua
các phiền não đồng sanh với phóng dật vả (đang vượt qua) các uẩn, trạng thái
chuyên nhất không tán loạn của tâm là định có sự diệt tận là hành xứ. Đối với
vị đang vượt qua các phiền não đồng sanh với vô minh và (đang vượt qua) các
uẩn, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét có sự diệt tận là hành xứ. Như thế,
chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa vượt qua là có nhất vị, được kết hợp chung,
không vượt trội lẫn nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và
minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa vượt qua."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô tướng là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định vô tướng đối
với tất cả các hiện tướng, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô
minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là vô tướng đối với tất cả các hiện
tướng, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa
của vô tướng là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì
thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý
nghĩa của vô tướng."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa của vô nguyện là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định vô nguyện đối
với tất cả các nguyện ước, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô
minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là vô nguyện đối với tất cả các
nguyện ước, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý
nghĩa của vô nguyện là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn
nhau. Vì thế, được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung
theo ý nghĩa của vô nguyện."
Tu tập chỉ tịnh và minh
sát kết hợp chung theo ý nghĩa của không tánh là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang dứt bỏ
phóng dật, trạng thái chuyên nhất không tán loạn của tâm là định không tánh đối
với tất cả các cố chấp, có sự diệt tận là hành xứ. Đối với vị đang dứt bỏ vô
minh, minh sát theo ý nghĩa của sự quán xét là không tánh đối với tất cả các cố
chấp, có sự diệt tận là hành xứ. Như thế, chỉ tịnh và minh sát theo ý nghĩa của
không tánh là có nhất vị, được kết hợp chung, không vượt trội lẫn nhau. Vì thế,
được nói rằng: "Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa
của không tánh."
Tu tập: Có bốn sự tu tập:
...(như trên)... sự tu tập với sự rèn luyện là yếu lý.
Đạo lộ được hình thành: Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế.
Các sự ràng buộc được
dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế. Tu tập chỉ tịnh và
minh sát kết hợp chung theo ý nghĩa của không tánh là (có ý nghĩa) như thế. Tu
tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung theo 16 biểu hiện là (có ý nghĩa) thế.
Tu tập chỉ tịnh và minh sát kết hợp chung là (có ý nghĩa) thế.
* * *
Tâm của vị tỳ khưu bị
khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp là (có ý nghĩa) thế nào?
Đối với vị đang tác ý vô
thường, có ánh sáng sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến ánh sáng rằng: "Ánh
sáng là pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy,
(hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự
thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là
khổ não, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngã. Vì thế,
được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp.
Lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội
phần, lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành cho vị ấy."
Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế. Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có
ý nghĩa) như thế.
Đối với vị đang tác ý vô
thường, có trí sanh lên, có hỷ sanh lên, có tịnh sanh lên, có lạc sanh lên, có
sự cương quyết sanh lên, có sự ra sức sanh lên, có sự thiết lập sanh lên, có xả
sanh lên, có ước muốn sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ước muốn rằng: "Ước
muốn là pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy,
(hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về sự
thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là
khổ não, không nhận biết đúng theo thực thể về sự thiết lập là vô ngã. Vì thế,
được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng dật đối với các pháp. Lúc
tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được định ở chính nội phần,
lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành cho vị ấy: Đạo lộ được hình
thành là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế. Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có
ý nghĩa) như thế.
Đối với vị đang tác ý
khổ não, ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý vô ngã, có ánh sáng sanh lên,
...(như trên)... có trí sanh lên, có hỷ sanh lên, có tịnh sanh lên, có lạc sanh
lên, có sự cương quyết sanh lên, có sự ra sức sanh lên, có sự thiết lập sanh
lên, có xả sanh lên, có ước muốn sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ước muốn
rằng: "Ước muốn là pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật.
Do sự phóng dật ấy, (hành giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo
thực thể về sự thiết lập là vô ngã, về sự thiết lập là vô thường, về sự thiết
lập là khổ não. Vì thế, được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng
dật đối với các pháp. ...(như trên)... Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các
ngủ ngầm được chấm dứt là (có ý nghĩa) như thế.
Đối với vị đang tác ý
sắc là vô thường ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý sắc là khổ não, ...(như
trên)... Đối với vị đang tác ý sắc là vô ngã, ...(như trên)... thọ ...(như
trên)... tưởng ...(như trên)... các hành ...(như trên)... thức ...(như trên)...
mắt ...(như trên)... Đối với vị đang tác ý lão tử là vô thường, ...(như
trên)... Đối với vị đang tác ý lão tử là khổ não, ...(như trên)... Đối với vị
đang tác ý lão tử là vô ngã, có ánh sáng sanh lên, ...(như trên)... có trí sanh
lên, có hỷ sanh lên, có tịnh sanh lên, có lạc sanh lên, có sự cương quyết sanh
lên, có sự ra sức sanh lên, có sự thiết lập sanh lên, có xả sanh lên, có ước
muốn sanh lên. (Hành giả) hướng tâm đến sự ước muốn rằng: "Ước muốn là
pháp." Sự tản mạn do việc ấy là phóng dật. Do sự phóng dật ấy, (hành
giả), có tâm bị khuấy động, không nhận biết đúng theo thực thể về lão tử có sự
thiết lập là vô thường, không nhận biết đúng theo thực thể về lão tử có sự
thiết lập là khổ não, không nhận biết đúng theo thực thể về lão tử có sự thiết
lập là vô ngã. Vì thế, được nói rằng: "Tâm bị khuấy động bởi sự phóng
dật đối với các pháp. Lúc tâm ấy trụ lại, tập trung lại, được chuyên nhất, được
định ở chính nội phần, lúc ấy là thời điểm. Đạo lộ được hình thành cho vị
ấy."
Đạo lộ được hình thành
là (có ý nghĩa) thế nào? ...(như trên)... Đạo lộ được hình thành là (có ý
nghĩa) như thế. Các sự ràng buộc được dứt bỏ, các ngủ ngầm được chấm dứt là (có
ý nghĩa) như thế.
Rung động về ánh sáng,
về tuệ, và về hỷ,
về tịnh, và về lạc,
bởi chúng tâm xao động,
rung động về cương
quyết,
ra sức, và thiết lập,
do hướng tâm đến xả,
và ước muốn về xả.
Vị nào huân tập tuệ
về mười trường hợp này
biết phóng dật do pháp
không sa vào lầm lẫn.
Bị tản mạn, ô nhiễm,
tu tập tâm đình chỉ;
tản mạn, không ô nhiễm,
tu tập bị thối thất;
tản mạn, không ô nhiễm,
tu tập không thối thất;
và khi không tản mạn
tâm không bị ô nhiễm
tu tâm không đình chỉ.
Với bốn trường hợp này,
hiểu rõ mười trường hợp
thâu hẹp và khuấy động
vì tản mạn của tâm.
Phần Giảng về sự Kết Hợp
Chung.
--o0o--
Tỳ Khưu Indacanda
(Trích Dịch từ Patisambhidāmaggapāli -
Phân Tích Đạo thuộc Tạng Kinh, Tiểu Bộ)
Nguồn Kinh trích dẫn:
Kinh Gắn Liền Cột Chặt (Yuganaddha Sutta, AN 4.170)
Việt dịch: Ngài Minh Châu.
…. (Ngài Ananda giảng tại Kosambi –
Câu-diệm-bi) …
-- Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo-ni nào tuyên bố
trước mặt tôi rằng, đã chứng được quả A-la-hán, tất cả vị ấy được đầy đủ bốn
chi phần này, hoặc là một trong bốn chi phần này. Thế nào là bốn?
(a) Ở đây, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập
quán, có chỉ đi trước; do vị ấy tu tập quán có chỉ đi trước, con đường được
sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy
thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận,
các tùy miên được chấm dứt.
(b) Lại nữa, này chư Hiền, vị Tỷ-kheo tu
tập chỉ, có quán đi trước. Do vị ấy tu tập chỉ có quán đi trước, con đường được
sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị ấy
thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận,
các tùy miên được chấm dứt.
(c) Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo tu tập
cả hai chỉ quán gắn liền với nhau. Do vị ấy tu tập cả hai chỉ quán gắn liền với
nhau, con đường được sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho
sung mãn. Do vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết
sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.
(d) Lại nữa, này chư Hiền, Tỷ-kheo với
các dao động đối với các pháp được hoàn toàn dứt sạch. Này các Hiền giả, đây là
thời khi tâm của vị ấy an trú, an tọa, nhất tâm, định tĩnh. Với vị ấy, con
đường sanh khởi. Vị ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn. Do vị
ấy thực hành con đường ấy, tu tập, làm cho sung mãn, các kiết sử được đoạn tận,
các tùy miên được chấm dứt.
Yuganaddha Sutta: In Tandem
translated from the Pali by Thanissaro
Bhikkhu
On one occasion Ven. Ananda was staying
in Kosambi, at Ghosita's monastery. There he addressed the monks,
"Friends!"
"Yes, friend," the monks
responded.
Ven. Ananda said: "Friends, whoever
— monk or nun — declares the attainment of arahantship in my presence, they all
do it by means of one or another of four paths. Which four?
"There is the case where a monk has
developed insight preceded by tranquillity. As he develops insight preceded by
tranquillity, the path is born. He follows that path, develops it, pursues it.
As he follows the path, developing it & pursuing it — his fetters are
abandoned, his obsessions destroyed.
"Then there is the case where a monk
has developed tranquillity preceded by insight. As he develops tranquillity
preceded by insight, the path is born. He follows that path, develops it,
pursues it. As he follows the path, developing it & pursuing it — his
fetters are abandoned, his obsessions destroyed.
"Then there is the case where a monk
has developed tranquillity in tandem with insight. As he develops tranquillity
in tandem with insight, the path is born. He follows that path, develops it,
pursues it. As he follows the path, developing it & pursuing it — his
fetters are abandoned, his obsessions destroyed.
"Then there is the case where a
monk's mind has its restlessness concerning the Dhamma [Comm: the corruptions
of insight] well under control. There comes a time when his mind grows steady
inwardly, settles down, and becomes unified & concentrated. In him the path
is born. He follows that path, develops it, pursues it. As he follows the path,
developing it & pursuing it — his fetters are abandoned, his obsessions
destroyed.
"Whoever — monk or nun — declares
the attainment of arahantship in my presence, they all do it by means of one or
another of these four paths."
[PTS: A, II, 156]
(Arahattappattisuttaṃ)
Ekaṃ samayaṃ āyasmā ānando kosambiyaṃ viharati ghositārāme. Tatra kho āyasmā
ānando bhikkhū āmantesi; āvuso bhikkhavoti. Āvusoti kho te bhikkhū āyasmato
ānandassa paccassosuṃ. Āyasmā ānando etadavoca:
Yo hi ko ci
āvuso bhikkhu vā bhikkhunī vā mama santike arahattappattiṃ vyākaroti. Sabbo so catūhi maggehi,
etesaṃ vā
aññatarena. Katamehi catūhi?
Idha āvuso bhikkhu samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāveti. Tassa samathapubbaṅgamaṃ vipassanaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā
pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.
Puna ca paraṃ āvuso bhikkhu vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāveti, tassa vipassanāpubbaṅgamaṃ samathaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā
pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.
Puna ca paraṃ āvuso bhikkhu samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāveti. Tassa samathavipassanaṃ yuganaddhaṃ bhāvayato maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā
pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.
Puna ca paraṃ āvuso bhikkhuno dhammuddhaccaviggahītaṃ mānaṃ hoti. So āvuso samayo yantaṃ cittaṃ ajjhattaṃyeva santiṭṭhati sannisīdati ekodihoti samādhiyati.
Tassa maggo sañjāyati. So taṃ maggaṃ āsevati bhāveti bahulīkaroti. Tassa taṃ maggaṃ āsevato bhāvayato bahulīkaroto saññojanā
pahīyanti. Anusayā vyantīhonti.
Yo hi ko vi āvuso bhikkhu vā bhikkhunī vā
mama santike arahattappattiṃ vyākaroti, sabbo so imehi catūhi maggehi, etesaṃ vā aññatarenāti.
P/s:
Sự khác biệt giữa thiền Định trong đạo Phật và thiền Định ngoài đạo Phật: Ngoài đạo Phật, hành giả tu tập thiền Định, có thể đắc đến tầng định cao nhất, có thể đắc thần thông; và thấy rằng đã đạt đến cứu cánh cùng tột, mục đích giải thoát đã đạt được. Ở đạo Phật, sau khi tu tập thiền Định (Chỉ tịnh) rồi, hành giả cần phải tiếp tục tu tập Minh sát. Định đạt được do nhờ trạng thái tâm chuyên nhất, không tán loạn, được thúc đẩy bởi sự ly dục, ly ác pháp. Minh sát đạt được sau khi quán xét các pháp do Định sinh lên đó là vô thường, quán xét các pháp do Định sinh lên đó là khổ, quán xét các pháp do Định sinh lên đó là vô ngã; trong ý nghĩa sự tu tập Minh sát có Chỉ tịnh đi trước.
No comments:
Post a Comment