Theo truyền thống Phật giáo Nam truyền (Theravāda), mùa an cư
của chư Tăng bắt đầu từ ngày 16 tháng 6 âm lịch và kết thúc vào ngày rằm tháng
9 âm lịch. Sau ba tháng an cư mùa mưa, vào ngày kết thúc an cư mùa mưa, chư
Tăng phải hội lại tại trú xứ mà mình nhập hạ để làm lễ tự tứ (pavāraṇā). Ngày
Tự tứ có thể thực hiện vào ngày rằm tháng 9, cuối tháng 10 hoặc là trễ lắm là
vào ngày rằm tháng 10 âm lịch, nghĩa là phải làm lễ tự tứ trong thời gian mùa
mưa, không được quá mùa mưa[1].
Pavāraṇā thường được dịch là Tự tứ, và từ này đã được dùng
phổ thông trong Phật giáo. Tuy nhiên, ý nghĩa chính thức và chủ yếu của từ
Pavāraṇā có nghĩa là sự thỉnh cầu (pavāreti), sự yêu cầu, hay nói cách khác là
sự thỉnh tội, tức là thỉnh cầu chư Tăng chỉ lỗi, nhắc nhở, khuyên bảo bằng tâm
từ do thấy, do nghe, do nghi để vị Tỳ khưu đương sự thấy lỗi của mình mà sửa
sai và hoàn thiện bản thân.
Đức Phật dạy trong Tạng Luật như sau:
Này các Tỳ khưu, đối với các tỳ khưu đã sống qua
mùa mưa (an cư) ta cho phép thỉnh cầu dựa trên ba tình huống là do đã được
thấy, hoặc do đã được nghe, hoặc do sự nghi ngờ. Bằng cách ấy, các ngươi sẽ có
được sự hòa thuận lẫn nhau, có được sự thoát ra khỏi tội, và có được sự hiểu rõ
thêm về Luật.[2]
Theo tinh thần của Phật giáo, lễ Tự tứ hay thỉnh cầu vị khác
chỉ lỗi của mình là một cách kiểm điểm lại bản thân mình, từ những hành động do
thân, đến những lời nói phát ra từ khẩu, thậm chí là những suy nghĩ từ ý, nếu
thấy những lời chỉ dạy đó là đúng sự thật, mình sẽ thành khẩn sám hối để được
thanh tịnh. Nhờ vậy, mọi thành viên trong Tăng đoàn đều trở nên hoàn thiện,
xứng đáng là bậc phước điền của nhân thiên.
Có lẽ nhiều người sẽ thấy rằng cách thức xây dựng như thế
này hơi khác so với thế tục. Lẽ thường, chúng ta rất giàu lòng tự ái, sống mà
chỉ biết chấp vào cái ngã của mình, không mấy ai muốn người khác biết khuyết
điểm của mình, chứ đừng nói là có thể chấp nhận để cho họ nêu ra những lỗi lầm
mà mình đã phạm. Giả sử có ai đó đụng đến tên tuổi, tự ngã của ta thì ta sẽ
phản ứng lại bằng nhiều hình thức “ăn miếng trả miếng” ngay
lập tức, vì kẻ khác chạm đến nhược điểm của ta, đó là một sự xúc phạm tự ái
không hề nhẹ, khó mà tha thứ được.
Học tập theo gương hạnh của đức Thế Tôn, chính Ngài, là bậc
thầy của cả chư thiên và nhân loại, vậy mà Ngài vẫn đích thân làm lễ tự tứ với
chúng Tỳ khưu Tăng. Đây sẽ là một bài học hữu ích về một vị Đạo Sư giản dị và
bình thường như bao vị đạo sư khác mà không hề tầm thường.
Một thuở nọ, Thế Tôn trú ở Sāvatthi, tại Đông Viên, giảng đường
Lộc Mẫu, cùng đại chúng khoảng năm trăm vị Tỳ khưu, tất cả đều chứng quả
A-la-hán. Lúc bấy giờ, vào ngày lễ Tự tứ của Tỳ khưu Tăng, Thế Tôn ngồi
giữa đại chúng, sau khi nhìn quanh đại chúng im lặng, liền bảo các Tỳ khưu:
- Này các Tỳ khưu, Ta mời các ông nói lên, các ông có điều
gì chỉ trích Ta hay không, về thân hay về lời nói?
Được nghe như vậy, Tôn giả Sāriputta từ chỗ ngồi đứng dậy,
chắp tay cung kính bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, chúng con không có chỉ trích gì Thế Tôn về
thân hay lời nói. Và bạch Thế Tôn, con xin mời Thế Tôn nói lên, Thế Tôn có điều
gì chỉ trích con hay không, về thân hay về lời nói?
- Này Sāriputta, Ta không có gì chỉ trích ông về thân hay về
lời nói.
- Bạch Thế Tôn, đối với năm trăm Tỳ khưu này, Thế Tôn có gì
chỉ trích về thân và lời nói hay không?
- Này Sāriputta, đối với năm trăm Tỳ khưu này, ta không có
gì chỉ trích về thân hay về lời nói.[3]
Trong xã hội của chúng ta, đa số mọi người chỉ mong cầu nghe
những lời nói ngọt nào, đường mật để đưa họ lên đến dây điện lưới hay là nóc
nhà, nhưng họ đâu biết rằng càng đưa lên cao thì họ sẽ càng té đau. Vì si mê,
họ đâu biết điều đó mà chỉ lo đi tầm cầu cái tầm thường trong những cái quá
bình thường mà họ không hề biết đến. Họ cho rằng“Người quân tử chỉ ca ngợi
những đức hạnh của người, chứ không đề cập đến lỗi lầm của họ” [4].
Mới nghe qua thấy sao mà cao thượng quá, khiến ai cũng chạy theo răm rắp nhưng
những kẻ a dua ăn hùa ấy đâu biết rằng họ đang sống theo một chủ nghĩa cầu an
một cách đến tiêu cực, bởi vì những hành vi của họ chỉ muốn bảo đảm an toàn cho
cá nhân mà không hề có một chút suy nghĩ gì đến việc xây dựng và phát triển của
tập thể, của cộng đồng và xã hội.
Vượt ra ngoài thế gian phàm tục, đi ngược dòng đời, hàng
xuất gia áp dụng phương thức thỉnh tội một cách tinh tế và đầy lòng vị
tha. Tự tứ là nhằm mục đích xây dựng Tăng đoàn có một đời sống cao khiết, thanh
tịnh và an lạc thực sự. Bởi vì, Tăng đoàn là một tập thể sống hòa hợp, vô ngã,
theo đuổi một mục đích tối thượng là giác ngộ và giải thoát. Mà muốn thực sự giải
thoát giác ngộ thì nỗ lực đoạn diệt những phiền não kiết sử như là thân kiến, nghi, giới cấm thủ, dục
tham, sân, ái sắc, ái vô sắc, mạn, trạo cử, vô minh[5]. Vì
những kiết sử này vốn là những thế lực chủ yếu của ma vương, tay sai của luân
hồi để cản trở chúng ta trên tiến trình hướng đến sự giác ngộ, vượt ra khỏi ma
lực của tử thần.
Ye ca kho
sammadakkhāte,
Dhamme
dhammānuvattino;
Te janā pāramessanti,
Maccudheyyaṃ suduttaraṃ.
Những ai hành trì pháp,
Theo chánh pháp khéo dạy,
Sẽ đến bờ bên kia,
Vượt ma lực khó thoát.[6]
Trong đoàn thể chư Tỳ khưu
Tăng, muốn cho được hoàn thiện, để
đem lại đức tin đối với những người chưa có đức tin và làm tăng trưởng đức tin
đối với những người đã có đức tin[7], nên Ðức
Phật chế định cách hành Tăng sự Pavāraṇā của chư Tỳ khưu, từ vị Trưởng lão cho
đến vị tân Tỳ khưu, mỗi vị đều thành tâm nghiêm chỉnh, tha thiết nói lên lời
thỉnh mời chỉ rõ lỗi của mình, trong trường hợp do thấy, do nghe, hoặc do nghi ngờ.
Khi
nhận thấy đúng, vị ấy phải xin thành tâm sám hối và sửa chữa để trở nên thánh
thiện, tốt đẹp. Tốt đẹp không chỉ riêng cho mình, mà còn chung cho đoàn thể chư
Tỳ khưu Tăng. Ðó mới là ý nghĩa của việc hành Tăng sự Pavāraṇā (Lời thỉnh
mời) đúng theo tinh thần giới luật cũng như là tinh thần của Phật giáo Nam truyền.
Posted on 12/10/2013 Tỳ
khưu Định Phúc (Samādhipuñño)
No comments:
Post a Comment