Đại đức Ācariya Mun ở trong động Sarika trong vòng ba năm liền, và trong thời gian ấy có nhiều chuyện lạ đáng kể và không thể quên. Theo trí nhớ không lầm của tôi, tác giả, thì lúc đầu ngài tới làng Ban Gluay ở gần thạch động, mà không xa lắm cho việc đi khất thực. Vì là người mới tới khu vực nầy, nên đại đức ngõ lời nhờ dân làng hướng dẫn lên tới thạch động trên núi. Nhưng dân làng tỏ ra rất e ngại, không muốn đưa đi. Họ thuật cho ngài nghe sự tích của thạch động mà họ cho là ghê gớm lắm. Nhiều vị Tỳ khưu đã lên đó trước đại đức, được biết là mắc phải một chứng bịnh rất nặng khiến cho các vị ấy rút lui, bỏ đi nơi khác. Có mấy vị mất mạng ở tại đó nữa. Người ta tin rằng thạch động đã bị một đại ác thần có quyền lực ghê gớm chiếm cứ rồi. Và vị thần đó sử dụng phép lạ chống đối lại bất kỳ ai lên ở trong động của mình, và làm kẻ xâm phạm bỏ mạng tại đó nữa. Hình như ác thần ưa khiêu khích bất kỳ vị Tỳ khưu nào dám xâm nhập lãnh vực của mình, dầu cho họ có tài phép bùa chú giỏi bậc nào đi nữa, và kết cuộc thường là vị Tỳ khưu ấy thọ bịnh và chết cấp kỳ. Chính vì sự kiện nầy, mà dân làng không muốn đưa đại đức tới thạch động. Sợ rằng đại đức lại sẽ vong mạng như mấy vị trước đó. Nghe tới đây, đại đức bèn hỏi con quỷ lớn ở thạch động làm cách nào cho người ta biết nó? Họ đáp rằng: Chỉ nội đêm đầu, người khách lạ sẽ chiêm bao thấy một con quỷ đen, cao lớn hiện đến, cặp mắt dữ tợn dễ sợ và lăm le muốn hạ sát kẻ lạ. Con quỷ tự xưng là chủ và là thần trấn thủ thạch động, có độc quyền ngự trị trọn cả vùng nầy, nó không dung tha cho kẻ đột nhập phi pháp, và sẽ lôi kéo tống cổ đuổi đi lập tức bất cứ kẻ nào dám xâm phạm vương quốc của nó. Và trong phần nhiều trường hợp ấy vị khách không thể trú ngụ lâu ngày tại đó. Vài vị được biết là đã xuống núi sau đêm đầu tiên, với nét mặt kinh sợ và thề rằng sẽ không bao giờ trở lại nữa. Rồi có mấy người khác đã lên mà không thấy trở xuống, chắc có lẽ đã chết trên đó. Gần đây nhất là trường hợp, có bốn vị Tỳ khưu vừa mới chết cách đó không lâu. Lúc mới tới khu vực nầy họ được dân làng khuyên không nên ở cái hang động đó, tuy nhiên một trong số họ khoe là có bùa phép oai lực, đủ để tự bảo vệ họ. Nhưng sau khi lên tới đó thì họ bị bệnh, phải trở xuống làng với triệu chứng nhức đầu và sốt cao, và bị đau bụng dữ dội, và cuối cùng thì bỏ xác tại làng. Họ không chắc là cái chết của các vị Tỳ khưu đó là do con quỷ làm chết hay là vì lý do khác, nhưng có một điều là họ biết chắc có một oai lực hiện hữu tại hang động đó. Sự tích cái hang động thật là khiếp sợ, do đó dân làng khuyên nhà sư hay khách lạ, những ai vì có lẽ muốn tìm kiếm oai lực, hay bùa chú đặc biệt gì tại đó, thì không nên tới. Dù rằng chưa tận mắt thấy, nhưng dân làng đã chứng kiến những hiện tượng lạ xảy ra.
Tuy nghe câu chuyện rùng rợn của dân làng, nhưng
đại đức vẫn không thối chí mà quyết định lên đó ở xem hư thực ra sao, và đại
đức nghĩ rằng đây là dịp may thử thách phát triển chánh niệm và nhờ đó phát
hiện ra vài bài học quí giá trong việc hành thiền. Ngài đã có một tâm bất thối
và vô úy trong việc chân chính trên đường giải thoát. Đại đức khiêm tốn thuyết
phục dân làng dù rằng câu chuyện thật sự đáng sợ, nhưng đại đức vẫn còn muốn
lên ở đó, và trấn an dân chúng rằng khi ngài thấy có một dấu hiệu nguy hiểm nào
tới tánh mạng thì ngài lập tức rời hang xuống núi. Thấy không thể ngăn cản được
ngài họ đành thuận theo mà chỉ đường lên hang cho ngài.
Những ngày đầu ở trong thạch động, đại đức không
thấy xảy ra chuyện chi lạ. Thân tâm đại đức được thảnh thơi vui thú nhờ nơi
phong cảnh tịch mịch quạnh hiu. Lâu lâu mới nghe tiếng la hú ồn ào của loài dã
thú đi lang thang trong vùng ấy. Nhưng những đêm sau đó, thì chứng đau dạ dày
lúc trước thỉnh thoảng làm khổ ngài, bây giờ phát trở lại, và kỳ nầy nó có vẻ
dây dưa trầm trọng lắm. Có khi đại đức đi tiêu ra máu, và bộ tiêu hóa hình như
bị tê liệt không hoạt động nữa, ăn món gì thì đi tiêu ra cũng thấy còn nguyên.
Đại đức nhớ tới lời cảnh cáo của dân làng rằng đã có bốn vị Tỳ khưa đã chết gần
đây. Đại đức nghĩ: Có thể mình sẽ là nạn nhân thứ năm, nếu cơn bệnh cứ tiếp tục
như thế! Một buổi sáng, sau khi có vài người dân làng lên thăm đại đức, ngài
nhờ dân làng kiếm thuốc làm bằng vài thứ lá cây và từ rễ cây, mà trước kia
ngài đã dùng thấy công hiệu. Nhưng rồi, tất cả thuốc men đều vô hiệu. Bịnh càng
ngày càng nặng thêm. Thân thể của đại đức suy nhược, mặc dầu tinh thần ngài
không bị ảnh hưởng nhiều nhưng cũng giảm sút. Ngày kia khi đang uống thuốc,
ngài tự kiểm xét rằng: “Ta đã uống thuốc đã nhiều ngày, nếu thật sự thuốc công
hiệu thì bệnh ta giờ nầy đã thuyên giảm rồi. Mà càng ngày bệnh càng nặng, đó là
vì thuốc không công hiệu cho bệnh trạng của ta giờ nầy nữa. Vậy thì ta còn ỷ
lại nơi thuốc men làm chi nữa”. Nghĩ vậy, ngài ngưng dùng thứ y dược chế hóa
thông thường, mà chỉ nương cậy vào hiệu năng trị liệu của Pháp (Dhamma), nếu
như Pháp dược không thể chữa nỗi xác thân nầy, thì hãy để cho nó chết tại đây,
trong cái hang động nầy. Đại đức tự nhủ lấy mình rằng: “Ta là Phật tử, đã tiến
hành khá xa, đủ để biết chắc con đường dẫn tới đạo (Magga), quả (Phala) và Niết
bàn (Nibbāna). Tại sao ta lại thối chí ngã lòng vì chút nỗi khổ đau nầy? Nếu
như ta chịu thua bấy nhiêu đau khổ ở giai đoạn nầy, thì ta còn hy vọng gì được
nữa, khi trận chiến đấu quyết định bộc phát vào lúc xác thân tan rã, khi mà nỗi
đau đớn dồn dập bủa đến, không nương tay thì ta còn sức đâu mà tỉnh thức mà
chuyển hóa tâm thức, giải thoát khỏi tử sanh”. Tự khuyến cáo như thế, đại đức
nghỉ uống thuốc và khởi sự tham thiền để nương cậy nơi hiệu năng trị liệu của Pháp
Phật mà thôi. Cái thân này được cái ý đeo níu vào mạng sống bị bỏ rơi. Ngài để
xác thân theo cách tự nhiên của nó, chỉ dùng mọi nổ lực mà quán tâm. Niệm và
tuệ sánh đôi với tín và tấn bám sát theo cái tâm không chết nhưng cứ luôn luôn
sợ chết. Con mắt giải phẫu của tuệ được nhắm ngay đến cảm thọ (Vedanā) hay cảm
giác đau khổ với những uẩn khác bị phân tích một cách vô tư. Thế là xác thân
hay sắc (Rūpa) bị đau đớn, cảm giác hay cảm thọ (Vedanā) sự đau đớn, trí ghi
nhớ hay tưởng (Saññā) biết đây là đau đớn, và hành (Saṅkhāra) cùng quá
trình mà biết thân thể bị đau là thức (Viññāṇa), tất cả đều bị minh sát bởi
chánh niệm và tuệ. Cuộc chiến đấu ác liệt sôi động từ mờ sáng tới nửa đêm thì
chấm dứt, lúc ấy thì ngài “hiểu rõ” bản chất của các uẩn, và cái đau dai dẵng
đã tự biểu lộ hoàn toàn. Lúc ấy thì chứng bịnh mất dạng và ngài an trú trong
định. Ở tại điểm ấy có cái tâm đoạn diệt: dứt khổ, dứt bịnh, và dứt cảm ứng của
tâm. An trú một lúc lâu trong đại định, tâm ngài rút khỏi xuống mức độ cạn hơn,
gọi là cận hành định. Thì bỗng nhiên xác thân chói ngời hào quang làm phát hiện
một người đàn ông da đen, bề cao độ mười thước, tay cầm cây côn to như bắp đùi
người lớn, và dài độ bốn thước. Người ấy đến gần đại đức hùng hổ dọa nạt rằng:
Nếu đại đức không đi khỏi chỗ ấy thì hắn ta sẽ đập cho một côn là bỏ mạng. Cây
côn to nầy có thể nện xuống một cái là voi cũng phải nát thây. Đại đức hướng
tâm đến con quỷ và bèn hỏi con quỷ tại sao nó muốn hạ sát ngài, và rõ ràng là
đại đức không có làm lỗi chi, và cũng không làm hại ai mà phải chịu hình phạt
khốc liệt. Con quỷ nói rằng nó đã được quyền bảo toàn vùng núi nầy, từ lâu
rồi, và sẽ không dung tha cho kẻ nào dám cả gan thách thức, hoặc có ý định lấn
lướt nó.
“Nhưng ta không thách thức ai, mà cũng chẳng có
ý định lấn lướt người nào cả”, đại đức nói, “Chính vì muốn thách thức và lấn
lướt những phiền não ngự trị trong tâm ta mà ta phải đến đây. Ta xin hết lòng
khuyên can nhà ngươi chớ mong hãm hại ta, là một vị Tỳ khưu, đệ tử của đức Phật
thế tôn mà oai lực, từ bi bao trùm khắp cả tam giới”. Trong khi giảng đạo cho
con quỷ nghe, đại đức hỏi nó có đủ quyền lực thắng được nghiệp (Karma) không?
Thì con quỷ trả lời: “Dạ không!”. Bấy giờ đại đức mới tiếp lời rằng: “Đức Phật
có đủ quyền lực loại trừ khỏi tâm ngài, cái dục vọng muốn xâm lấn và hãm hại kẻ
khác”, vậy bây giờ đại đức hỏi con quỷ “Nhà ngươi có đủ quyền lực làm như vậy
không?”. Một lần nữa, con quỷ nhận rằng: Nó không có. Nghe vậy đại đức mới
khuyên con quỷ, chỉ cho nó biết quyền lực của nó, nếu có chỉ là thứ làm cho nó trở
thành kẻ thô lỗ, dã man, mà việc tạo nghiệp dữ sẽ làm nó lãnh hậu quả xấu xa và
nặng nề, không biết rằng là làm hại kẻ khác chính là hại chính mình. “Ta là một
Tỳ khưu, hành theo Pháp Phật, ta tu để lợi mình và lợi người. Đó là nguyện vọng
của ta. Thế mà nhà ngươi đến đây định đánh đập, sát hại ta mà không biết đến
tội ác đó sẽ lôi nhà ngươi vào khổ cảnh của ác đạo. Ta không lo ngại về mạng
sống của ta cho bằng ta thương hại cho nhà ngươi, bởi vì nhà ngươi sắp bị hại
do chỗ mê lầm chấp trước quyền lực của chính nhà ngươi. Hãy thử nghĩ xem trên
đời có thứ quyền lực nào có thể cản nỗi quả báo của cái nghiệp ác mà nhà ngươi
sắp tạo hôm nay chăng? Có thứ quyền lực nào bao trùm miền sơn dã nầy của nhà
ngươi, mà có thể sửa đổi được Pháp (Dhamma) và nghiệp (Karma) chăng? Nếu như
có, thì bây giờ nhà ngươi có thể tùy ý muốn làm gì thì làm. Ta thì không sợ
chết, vì thế nào rồi ta cũng sẽ phải chết khi đến hạn kỳ, dầu nhà ngươi có cố
tâm giết ta hay không cũng vậy. Cõi đời là chỗ của muôn loài tử sanh, kể cả nhà
ngươi là kẻ mê lầm vì mặc cảm quyền lực”.
Trong khi đại đức Mun Bhūridatta dùng tâm dạy
bảo con quỷ chúa, thì nó đứng sừng sững như bị trời trồng, không cử động và
nói năng chi được cả. Nếu là con người, có thể nói là nó sợ quá mất thở và hổ
thẹn, nhưng nó là chúng sanh ở cảnh giới khác, chúng không thở như chúng ta.
Tuy là nó cố giữ vẻ tự nhiên nhưng rõ ràng là nó lộ vẻ sợ hãi và hổ thẹn, đến
nỗi không thể kiềm chế được. Khi đại đức dứt thời pháp, thì nó chịu phép đầu
hàng, và vứt bỏ cây côn vác trên vai xuống. Rồi nó biến hình thành ra một thiện
nam nhu mì mến đạo. Nó hạ mình xin đại đức hoan hỷ miễn thứ những cử chỉ thô
bạo và ý định xấu xa của nó. Và sau đây là lời tự thú tội của nó, chứng tỏ rằng
nó đã có đức tin và đã cải tà quy chánh nhờ nghe thời pháp cảnh tỉnh của ngài.
“Con thật hết sức kinh ngạc, ngay lúc gặp đại đức, những ngày trước đây. Hình
như là có một đạo hào quang mạnh mẽ phi thường từ nơi đại đức phóng ra và chiếu
thẳng vào con, làm tay chân con rũ liệt. Con cảm thấy chán nản một cách lạ kỳ,
không muốn làm hại đại đức một chút nào cả. Lúc con bị chụp trong cái vùng hào
quang mãnh liệt ấy. Việc nầy, thật con không biết được nguyên nhân, bởi vì con
chưa từng thấy bao giờ. Nhưng đại đức có thể tin chắc rằng: Những cách hăm dọa
của con dầu bằng cử chỉ hay ngôn ngữ cũng chỉ là giả đò, chứ không thật sự. Con
đã hăm dọa đại đức như thế, chẳng qua là vì mặc cảm tự tôn, là vì con đã được
các quỷ thần chung quanh vùng nầy qui phục, coi con như là vị chúa tướng.
Chúng con đã quen sử dụng quyền lực của mình một cách thô bạo, và con nhân danh
quỷ chúa, con bị bắt buộc phải làm một việc ngoài ý muốn của con, để mà bảo
toàn danh vị. Con không hề có ý định nào thật sự muốn làm hại, chỉ vì thói quen
muốn bắt nạt kẻ khác khi mình nghĩ mình có quyền lực trong tay. Đó là điều mà
ai cũng phạm phải khi mình có chút quyền lực trong tay. Cầu xin đại đức hoan hỷ
từ bi cho con sám hối những nghiệp chẳng lành, là việc xúc phạm đến đại đức
trong ngày hôm nay. Xin cho nghiệp ấy tiêu tan và không bao giờ còn đè nặng oằn
vai con nữa. Ngay từ bây giờ, sự đau khổ mà con đã thấy hầu như quá sức của con
rồi”. Đại đức bèn hỏi con quỷ chúa, lúc bấy giờ đã biến thành một thiện nam
tử, tại sao nó lại nói nó khổ, trong khi nó có một xác thân bằng thanh khí
không cồng càng, nặng nề như thân người. Ngoài ra, nó không phải nặng lo vì kế
sinh nhai, hoặc khổ vì phải kiếm chỗ tránh mưa nắng như trong hoàn cảnh của con
người. Nó đáp rằng: “Nhìn bề ngoài, thì loài thần, trời, với thân thể trong
sáng có vẻ sung sướng hơn loài người với xác thân thô kệch. Nhưng chúng con
cũng có nỗi khổ, sự sai biệt phần nhiều là ở mức độ hơn là chủng loại”. [Mức độ khổ não (Dukkha) thì chúng sanh nào cũng có không phân biệt chủng loại, cảnh giới khi còn ở trong tam giới. Ở đây ý nói sự khổ não của loài trời thần còn nặng nề, thô tháo hơn các bậc tu hành chân chính ở cõi người, làm họ phải kính nể và quy ngưỡng].
Cuộc đối thoại giữa đại đức và quỷ chúa về vấn
đề huyền bí nầy rất sâu xa khó hiểu, đến nỗi tôi, tác giả, không thể ghi lại
chi tiết nơi đây, xin đọc giả thông cảm về chỗ thiếu xót nầy. Khi cuộc thảo
luận chấm dứt, vị nam tử, trước kia là đại ác quỷ, đã được thấm nhuần Phật
Pháp, bèn quy y Tam Bảo: Phật, Pháp, Tăng, và cầu xin đại đức làm giới sư. Vị
ấy phát nguyện làm hộ pháp và thỉnh cầu ngài ở mãi luôn ở thạch động. Và sẽ bảo
vệ ngài không cho bất cứ ai quấy rầy sự tịnh tu của đại đức. Thật sự thì vị ấy
không phải là hắc quỷ như đã xuất hiện, đó chỉ là hình dáng giả tạo mà thôi.
Vị ấy chính là chúa của những thọ thần. Vị ấy có một đoàn tùy tùng rất đông,
trong cả vùng rừng núi Nakhon Nayok và bao gồm nhiều tỉnh khác nữa. Ngài an trụ
trong cận hành định và đàm thoại với vị khách thần cho tới 4 giờ khuya, ngài
mới xuất định. Chứng bịnh hoành hành, lúc đại đức khởi sự tham thiền, bây giờ
đã dứt hẳn, hoàn toàn nhờ Pháp dược. Đây là kinh nghiệm quý báu mà ngài gặt
hái được. Thay vì nghỉ mệt, ngài lại gia công gắng sức tham thiền cho tới
sáng, mà thân thể không thấy gì mỏi mệt, trái lại tràn đầy sinh lực, sau một
đêm nhiều biến cố: Ngài đã thấy Pháp Phật cảm hóa được một thần hữu tình thô
bạo, kiêu ngạo thành một hữa tình có tín tâm vào Tam Bảo. Ngài đã an trụ trong
đại định hàng giờ, trạng thái tịnh lạc cao siêu mà ngài kinh nghiệm được từ đại
định, chứng bịnh kinh niên nay hoàn toàn khỏi hẳn, giờ đây tâm ngài đã có sự
vững chắc, mà ngài có thể tin tưởng vào để biết đâu là pháp đúng đâu là pháp
sai, và nhìn thấu rõ Sự Thật của mọi việc, mà lúc trước chưa đạt tới. Nhờ đó mà
trừ được cấu uế của tâm và đạt được những phẩm chất cao quí mà tạo cho ngài một
cá tánh đặc biệt. Trong những tháng kế, việc tham thiền của ngài tiến triển một
cách dễ dàng và không còn trở ngại, và sự tịnh lạc có được thì không lời nào có
thể diễn tả được điều an lạc đó. Thỉnh thoảng, về đêm ngài tiếp kiến các vị thọ
thần, thổ địa, từ các vùng chung quanh, họ đến viếng thăm ngài do vị chủ thần
vùng đó hướng dẫn. Khi không tiếp khách thì ngài an vui trong thiền định.
** Những mẫu chuyện về Ācariya Mun
(Ajahn Mun) - Tác giả Ācariya Boowa (Ajahn Boowa) **