* Câu hỏi về Vi Diệu Pháp:
- Chơn Đế và Tục Đế theo Vi Diệu Pháp.
** Phần Ý kiến (Comments):
Mưa Saigon: 1. Các tâm vô nhân nên nó nhận cảnh một cách tự động. Có 3 loại cảnh : Xấu (anittharupa), Thường (ittharupa) và Tốt (ati ittharupa). Cảnh tốt hay xấu thường có giá trị tương đối. Ví dụ khi nhìn thấy đức Phật (cảnh đẹp - ati ittharupa) thì người ngoại đạo lại sinh tâm không thích.
Phan Minh Nguyet:
- Trong 15 tâm vô nhân phân ra 7 tâm nhận cảnh trần không tốt đẹp và 8 tâm nhận cảnh trần tốt đẹp, tiêu chí nào để phân biệt cảnh trần tốt đẹp và không tốt đẹp?
- Trong 15 tâm vô nhân phân ra 7 tâm nhận cảnh trần không tốt đẹp và 8 tâm nhận cảnh trần tốt đẹp, tiêu chí nào để phân biệt cảnh trần tốt đẹp và không tốt đẹp?
- Có trường hợp
cùng 1 cảnh trần nhưng người này thấy là tốt đẹp, người khác có thể thấy là
không tốt đẹp. Những cảnh trần như vậy là đối tượng của các tâm vô nhân trong
lộ trình tâm (ngũ song thức, tiếp thọ tâm,...) thì đối tượng đó khi nào là pháp
chân đế, khi nào là pháp tục đế?
Post · August 15 at 4:22pm
- Chơn Đế và Tục Đế theo Vi Diệu Pháp.
** Phần Ý kiến (Comments):
Mưa Saigon: 1. Các tâm vô nhân nên nó nhận cảnh một cách tự động. Có 3 loại cảnh : Xấu (anittharupa), Thường (ittharupa) và Tốt (ati ittharupa). Cảnh tốt hay xấu thường có giá trị tương đối. Ví dụ khi nhìn thấy đức Phật (cảnh đẹp - ati ittharupa) thì người ngoại đạo lại sinh tâm không thích.
2. Đã là tâm vô
nhân thì là Chân đế vì nó không có nhân, nó là hậu quả và diễn ra tự động, ngay
cả tất cả tâm và tâm sở đều là Chân đế, nên miễn bàn khi nào nó là Chân Đế hay
Tục Đế.
August 15 at 9:40pm · Like · 1
Thuận Pháp Dhammiko: Trong 15 tâm quả vô nhân có 7 tâm quả vô
nhân bất thiện và 8 tâm quả vô nhân thiện. Vì đây là các tâm quả nên sau khi sinh
ra thì chúng ta gặp các cảnh xấu hay đẹp tùy theo các nhân thiện hay bất thiện
mà chúng ta đã gieo từ các kiếp trước. Tiêu chí để phân biệt cảnh tốt hay xấu
thì rất khó nhận thấy do tùy cảm nhận của từng người, nhưng lấy ví dụ dễ phân
biệt là ví như người Bắc Âu (đa số) vì do đời trước tạo nhiều phước thiện nên
kiếp hiện tại này có cuộc sống sung túc, nhà cửa to đẹp, có quang cảnh thiên
nhiên và môi sinh sạch đẹp; còn người Châu Phi như Somali, Etiopia (đa số) vì
do đời trước tạo nhiều ác nghiệp nên kiếp hiện tại gặp cảnh nghèo khó, cảnh đói
kém, không nhà cửa để ở, cảnh chiến tranh cướp bóc, cảnh thiên nhiên hoang
tàn,...
Trong thế giới
hữu vi của chúng ta, pháp chơn đế bao gồm 89 tâm, 52 tâm sở, 28 sắc vật chất,
nên những đối tượng liên quan với chúng đều là đối tượng chơn đế, trừ những cái
này ra là đối tượng của tục đế.
August 15 at 10:01pm · Edited · Like
Ven Adhiṭṭhāna: Akusala vipāka citta (tâm quả bất thiện)
gồm 7 tâm, tên gọi khác cho 7 tâm này là anittharūpa citta - tâm không hài lòng
với cảnh, 8 tâm quả còn lại gọi là Ahetuka kusala vipāka citta, trong 8 tâm này
thì 7 tâm đầu gọi là Ittharūpa citta - tâm hài lòng với cảnh, somanassa
santīraṇa citta - tâm quan sát thọ hỷ, tên gọi khác là ati - ittharūpa - cực kì
hài lòng. Như vậy, 1 cái cảnh có thể không hài lòng với người này, nhưng lại
hài lòng hay cực kì hài lòng với người khác, ví dụ như: sầu riêng là 1 loại
trái có mùi nặng, 1 số người phải che mũi hay cảm thấy khó chịu với nó như vậy
lúc này nó là anittharūpa - cảnh không hài lòng, nhưng với 1 số người khác có
thể là 1 cảnh hài lòng hay cảnh cực kì hài lòng.
Vấn đề thứ 2 khi
đã nói đến các vấn đề như tâm, sở hữu, sắc pháp, Niết bàn chính là đang nói
theo ý nghĩa của chân đế (Paramattha).
Tattha
vuttābhidhammatthā, catudhā paramatthato, cittaṃ cetasikaṃ rūpaṃ nibbānamīti
sabbathā.
Hơn nữa, cái này
gọi là tâm, cái này gọi là sở hữu, v,v... ý nghĩa của tâm này như thế này, tâm
kia như thế kia v,v... chẳng qua là dùng tục đế để giải thích chân đế.
August 15 at 10:59pm · Like · 3
Binh Anson: Đôi khi tôi cũng bâng khuâng … Nếu dùng
tục đế -- ở đây là ngôn ngữ quy ước của thế gian – để giải thích chân đế thì đó
có phải là chân đế không? Hay chỉ là chân đế của tục đế? Hay nói cách khác,
dùng ngón tay để chỉ mặt trăng, thì có thể diễn tả được mặt trăng một cách
chính xác không?
August 16 at 8:51am · Like · 1
Phạm Doãn: Góp một suy nghĩ:
Ngón tay chỉ
trăng không có khả năng diễn đạt chân lý toàn vẹn!
Nhưng ngón tay
chỉ trăng vẫn cần thiết vì có thể dùng để chỉ hướng, dẫn đường!
----
- Triết lý Đạo Phật
tức ngón tay (tục-đế) chỉ về mặt trăng chân lý (chân-đế).
Sau khi thấu
hiểu triết lý Đạo Phật, ta còn phải đi trực tiếp đến phía mặt trăng, tức còn
phải …
- Thực hành Đạo
Phật bằng các bước luyện tâm (bhavana) để tiếp cận chân-đế.
- Và chỉ sau khi
thực hành “thành công”, ta mới nhận ra Chân-Đế là gì!
August 16 at 9:49am · Like · 5
Chí Thiện Cư Sĩ: Cac Bac Vo Hoc da doan diet hoan toan
cac lau hoac nhu nguoi phi hanh gia di duoc tren mat trang.
August 16 at 11:24am · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Ngôn ngữ quy ước hay vật quy ước là tục
đế dùng để hiểu chơn đế, chơn đế là cái thực và kinh nghiệm trực tiếp được.
"Ngón tay chỉ trăng" là vật quy ước để thấy được mặt trăng trong thực
tế là cái hình tròn tròn có phát ra ánh sáng, và ai có mắt cũng nhìn thấy được.
Mặt trăng thực là như vậy chứ không cần phải lên tận mặt trăng để sờ tận tay
mới xác quyết nó; cái này mấy nhà du hành Mỹ đã chứng minh được là mặt trăng
thật có và họ còn cắm cờ trên đó, chúng ta nên công nhận cho khỏe. Do đó chơn
đế có nhiều thuộc tính để cảm nhận. Ví như cái tên bác Binh Anson không có
thật, nó chỉ là tên gọi, mà gọi là tục đế, nó không thật vì tìm trên khắp cơ
thể, sờ khắp cơ thể bác sẽ không thấy đâu có chữ Binh Anson cả. Nhưng nếu sờ
lên cơ thể thấy có tính mềm mềm, nong nóng, hay trong con người đó lâu lâu nổi
lên sự giận hờn, sự hoan hỷ vui vẻ, thì những cái mềm mềm, nong nóng, tâm giận
hờn, tâm hoan hỷ đó là chơn đế, cái có thật :)
August 16 at 11:30am · Like
Minh Quang: Một hôm đức Phật giảng dạy[30] cho môn
đệ lý thuyết về nhân quả, và họ thưa rằng đã thấy và hiểu rõ điều ấy. Ðức Phật
liền dạy:
"Hỏi các Tỳ
kheo, ngay cả quan niệm ấy, minh bạch và rõ ràng như thế, nhưng nếu các ông bám
chặt vào đó, nếu các ông quý chuộng nó, nếu các ông cất giữ nó, nếu các ông
ràng buộc vào với nó, thì vậy là các ông đã không hiểu rằng giáo lý chỉ như một
chiếc bè, cốt dùng để qua sông chứ không phải để mà ôm giữ lấy."[31]
Ở một chỗ khác,
đức Phật giảng ẩn dụ danh tiếng này, trong ấy giáo lý được ví như một chiếc bè
dùng để qua sông, chứ không phải để nắm giữ và mang trên lưng.
"Hỏi các Tỳ
kheo, một người đi du lịch, đến một khoảng sông rộng. Bờ bên này rất nguy hiểm,
nhưng bờ bên kia thì an ổn và không có nguy nan. Không có một con thuyền nào để
qua bên kia bờ sông, cũng không có một chiếc cầu nào để đi qua. Người ấy tự
nhủ: "Con sông thật rộng, bờ bên này đầy hiểm nguy, nhưng bờ bên kia thì
an ổn không nguy hiểm. Không có con thuyền nào để sang bên kia, cũng không có
một chiếc cầu nào để qua. Bởi thế, thật sẽ rất tốt nếu ta lượm cỏ, gỗ, cành cây
và lá để làm một chiếc bè, và nhờ chiếc bè đó mà qua bờ kia cho an ổn, dùng cả
tay chân ta để chống chèo." Rồi hỏi các Tỳ kheo, người ấy lượm cỏ, gỗ,
cây, lá mà làm một chiếc bè, và nhờ chiếc bè ấy đưa sang bờ bên kia một cách an
ổn, chống chèo bằng chân tay mình. Sau khi đã vượt qua sông đến bờ kia, y nghĩ:
"Chiếc bè này thật đã giúp ích cho ta rất nhiều. Nhờ nó ta đã vượt qua an
ổn đến bờ sông bên này, chống chèo bằng tay chân ta. Thật đáng nên mang chiếc
bè này trên đầu hay trên lưng bất kỳ ta đi đâu."
- Các ông nghĩ
thế nào hỏi các thầy Tỳ kheo? Nếu người ấy làm như thế thì hành động của y có
phải là một hành động thích đáng đối với chiếc bè hay không?
- Bạch Thế Tôn,
không.
"Vậy thì y
nên làm thế nào với chiếc bè? Sau khi đã vượt qua sông và đến bờ bên kia, giả
sử người ấy suy nghĩ: "Chiếc bè này thật đã có công dụng rất lớn với ta.
Nhờ nó ta đã sang đến bờ sông bên này một cách an ổn, chống chèo bằng tay chân
ta. Ta nên để chiếc bè này trên nước, rồi tiếp tục đi bất cứ đâu." Ấy là
hành động một cách thích đáng đối với chiếc bè. Cũng thế, hỏi các Tỳ kheo, ta
đã truyền dạy một giáo lý tương tự như một chiếc bè, nó cốt dùng để vượt qua,
chứ không phải để mang theo, ôm giữ. Hỏi các Tỳ kheo, đã hiểu rằng giáo lý chỉ
như một chiếc bè, thì pháp (dhamma) các ông còn phải lìa bỏ, huống nữa phi pháp
(adhamma)[32] thì lại càng nên xả bỏ biết chừng nào."
http://www.quangduc.com/coban/18cdtk01.html
Quang Duc
Homepage - Vietnamese - English Buddhist library
www.quangduc.com
August 16 at 11:36am · Unlike · 1 · Remove
Preview
Chí Thiện Cư Sĩ: Nếu chúng ta so sánh mặt trăng là như là
mục đích tối thượng cần đạt đến, là níp-bàn, thì Đức Phật không dùng chế định
để diễn đạt quá nhiều về mục đích mà Ngài chỉ dùng chế định để diễn đạt thật
nhiều về con đường tiến đến mục đích tối thượng (Níp-bàn). Hiểu về pháp chơn
đế và pháp tục đế là kiến thức hỗ trợ hành giả tu tập để đạt được Thánh Quả,
nhưng vấn đề chính nhất vẫn là sự hành theo giáo lý của Đức Thế Tôn, chứ không
phải là sự đào sâu về vấn đề ngôn ngữ diễn đạt.
August 16 at 11:54am · Like · 2
Thuận Pháp Dhammiko: Chiếc bè này là phương tiện để đạt được
mục đính là qua được bên bờ kia sông có an ổn không hiểm nguy, quan trọng là
người đó thấy được tác dụng của chiếc bè và không tham đắm nó làm gì, nhưng
không có nó thì không được.
Người hành thiền
cũng vậy, thấy chơn đế và tục đế để làm phương tiện giác ngộ giải thoát khổ. Ai
giải thoát khổ rồi thì quên chơn đế và tục đế đi. Nhưng bảo đảm nếu chúng ta
không phân biệt được chơn đế và tục đế, không dùng chúng để tu tập như người
dùng chiếc bè để qua sông, thì chúng ta vĩnh viễn không bao giờ giải thoát khổ
được dù tu tập rất tinh tấn.
August 16 at 11:55am · Like · 1
Chí Thiện Cư Sĩ: Mục đích tối thượng (nip-bàn) hành giả
sẽ trực tiếp hiểu được tường tận khi đoạn diệt các lậu hoặc.
August 16 at 11:56am · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Ven Adhiṭṭhāna, TP thấy dùng ví dụ trái
sầu riêng vẫn chưa lột tả được đối tượng của tâm quả bất thiện và đối tượng của
tâm quả thiện! Phải lấy ví dụ đối tượng mạnh để mọi người tin nhân quả, sợ làm
việc bất thiện và luôn trau dồi việc thiện???
August 16 at 12:04pm · Like
Chí Thiện Cư Sĩ: Vậy chúng ta hãy dùng ví dụ về người
ngoại đạo Jampuka, người sống thời Đức Phật tại thế, người này do bị nghiệp quá
khứ nên chỉ thích ăn phân thay cho vật thực. Do trong thời Đức Phật Ca Diếp, vị
này là một vị Tỳ Kheo đã ganh ghét, xúc phạm đến Bậc Alahan đồng thời vị này
cũng đỗ bỏ vật thực của thí chủ cùng dường đến Bậc Alahan, nên đến thời Đức
Phật sanh làm kẻ ngoại đạo ăn phân mà sống, sau khi Đức Phật tế độ vị này đã
chứng quả Thánh Vô Học. Như vậy, khi vị này dùng phân thay vật thực, tâm thiệt
thức thọ xã quả bất thiện vô nhân sanh khởi trong lộ tâm để bắt cảnh, nhưng
đổng lực là tâm tham.
August 16 at 12:41pm · Unlike · 1
Thuận Pháp Dhammiko: Một ví dụ cho tiêu chí để phân biệt cảnh
trần tốt đẹp và không tốt đẹp là đối tượng của các tâm quả vô nhân. Có 2 đứa
bé, một đứa là con của gia đình ăn xin nghèo khó, đứa kia là hoàng tử con vua
quyền quý giàu có. Đứa con nhà ăn xin thì toàn thấy cảnh nhà cửa không đẹp,
nghe tiếng lời không hay, ăn uống thức ăn không ngon,... Đứa hoàng tử con vua
thì toàn thấy cảnh đẹp, toàn nghe tiếng lời hay, ăn toàn sơn hào hải vị,...Tóm
lại các tâm quả vô nhân tiếp nhận cảnh của hai đứa bé này khác nhau là do
nghiệp đời trước chúng tạo ra khác nhau nên hoàn cảnh sống hiện tại khác nhau.
Đứa hoàng tử đương nhiên đời trước tạo nhiều phước thiện hơn.
Cùng 1 cảnh trần
(đối tượng) nhưng người này thấy là tốt đẹp, người khác có thể thấy là không
tốt đẹp, thì đối tượng đó khi nào là pháp chân đế, khi nào là pháp tục đế??? Có
lẽ người thấy pháp chơn đế thì thấy bình thường, có thể không tốt đẹp, nhưng
người thấy pháp tục đế là thấy tốt đẹp! Ví dụ như mọi người bình thường nhìn
thấy cô hoa hậu thì ai cũng cho là đẹp, còn đối với vị tu tập quán thân như bộ
xương hay quán thân như túi đựng thịt xương, máu me thì thấy không đẹp, đáng
ghê tởm :)
August 16 at 1:31pm · Like
Tứ Diệu Đế: "Chư Hiền, do nhơn con mắt và các
sắc pháp, nhãn thức khởi lên. Sự gặp gỡ của ba pháp này là xúc. Do duyên xúc nên
có cảm thọ. Những gì có cảm thọ thời có tưởng, những gì có tưởng thời có suy
tầm, những gì có suy tầm thì có hý luận. Do hý luận ấy làm nhơn, một số hý luận
vọng tưởng ám ảnh một người, đối với các sắc pháp do con mắt nhận thức, quá
khứ, tương lai và hiện tại."
http://www.budsas.org/uni/u-kinh-trungbo/trung18.htm
Mọi người có
tưởng khác nhau, sự suy tầm khác nhau, hý luận vọng tưởng khác nhau nên có sự
thấy biết khác nhau.
August 16 at 1:52pm · Like · 1
Chí Thiện Cư Sĩ: Có những chúng sanh do thiện sự tạo
trong quá khứ nên kiếp này giàu sang, có vợ đẹp con xinh. Nhưng nếu chúng sanh
ấy không phải là người hiểu giáo lý thì sẽ khởi các tâm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân thức thọ xã quả thiện vô nhân để tiếp nhận cảnh rồi sau đó đến chặn đổng
lực sẽ sanh tâm tham ái dục. Nhưng nếu chúng sanh ấy là người hiểu được giáo
lý, thì sau khi tâm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân thức thọ xã quả thiện vô nhân sanh
khởi thì đến chặn đổng lực vị ấy quán tưởng quy trình diệt hoại của xác thân
hoặc vị ấy quán xét pháp chơn đế thấy rõ đây chỉ là sắc uẩn, thọ uẩn, tưởng
uẩn, hành uẩn, thức uẩn, sắc uẩn vô thường, thọ uẩn vô thường, tường uẩn vô
thường, hành uẩn vô thường, thức uẩn vô thường, do vậy tâm đại thiện hợp trí
sanh khởi. Như vậy, cùng một cảnh tốt nhưng tâm sinh lên có thể theo chiều
hướng tích cực hoặc tiêu cực. Ngược lại, đối với cảnh xấu cũng vậy, nếu là
người không hiểu giáo lý thì sau tâm quả bất thiện vô nhân sanh khởi sẽ thường
có sự khó chịu của tâm sân sanh khởi, nhưng ngược lại đối với người có tu tập
sẽ quán xét tam tướng, nghiệp quả, thấy rõ đâu là chơn đế thì sẽ khởi tâm đại
thiện hợp trí.
August 16 at 1:53pm · Like
Binh Anson: Cái gọi là “chân đế” trong A-tỳ-đàm
(VDP) thật ra chỉ là chân đế theo quan điểm của mỗi bộ phái trong thời kỳ phân
phái (hình thành trong khoảng 200-500 năm sau khi Đức Phật bát-niết-bàn). Hình
như mỗi bộ phái có lối giải thích khác nhau về tâm, tâm vương, tâm sở, sắc
pháp, niết-bàn, v.v., mặc dù nhìn chung, đó cũng chỉ là những hình thức khai
triển chi tiết các khái niệm đã có từ thời Đức Phật (danh sắc, tứ đại, ngũ uẩn,
12 xứ, 18 giới).
Vì vậy, theo
thiển ý, đó là “chân đế của tục đế” (ngôn tự thế gian), không phải là chân đế
thật sự (phi ngôn tự thế gian).
August 16 at 2:20pm · Like · 2
Chí Thiện Cư Sĩ: Các danh từ dùng để chỉ định pháp chơn
đế cũng là pháp tục đế (pháp chế định), nhưng gọi là Danh Chơn Chế Định. Còn
những danh từ dùng để chỉ những việc thường tình thế tục gọi Phi Danh Chơn Chế
Định, vì vậy chúng ta đừng nhầm lẫn giữa pháp chơn đế và pháp danh chơn chế
định.
August 16 at 2:33pm · Like · 2
Minh Quang: Theo MQ hiểu thì có lẽ mọi thứ ngôn
ngữ, cử chỉ để đặc tả các hình tướng (sắc pháp) cũng như mọi thứ ngôn ngữ, cử chỉ
để đặc tả tâm và trạng thái tâm, niết bàn (danh pháp), đều thuộc về ngôn ngữ qui
ước,chế định (tục đế), (có lẽ bao gồm cả vdp). Còn những cảm
giác, tri giác, kinh nghiệm nhận biết như (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý) để bản thân
thực sự trải nghiệm hay biết thực tại vũ trụ
như (sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp) thì mới thực sự là (chân đế), (nhưng có lẽ là
tâm đã phải vượt qua tam giới cũng như các triền cái...)
August 16 at 6:21pm · Like
Hoa Nguyen: Tâm (có vài chục trạng thái) và tâm sở
(có gần hay hơn 100) là những gì người bình thường có thể nhận thức bằng cảm
thọ, ý thức, nên theo ý nghĩ riêng (không căn cứ trên Vi Diệu pháp hay Duy
thức) đều thuộc về Tục đế, hiểu là thuộc chân lý của thế gian. Các hiện tượng,
trạng thái thuộc tâm và tâm sở ở phần sâu kín có vẻ bí ẩn đối với người bình
thường (nên có xu hướng đẩy về chân đế), nhưng các nhà tâm lý học, các vị thiền
quán sâu xa có thể nhận dạng, nhận thức được (như về vô thức, tiềm thức, ý thức
trong mộng, bản năng) và với họ cũng chỉ là tục đế. Chỉ những thuộc tính của
Niết Bàn là Chân đế. Xin nói lại, trên chỉ là ý nghĩ riêng.
August 16 at 8:18pm · Like
Phan Minh Nguyet: Cảm ơn các đạo hữu đã chia sẻ ý kiến
nhưng tôi vẫn chưa tìm được câu trả lời.
- Về vấn đề thứ
nhất, tôi đã được 1 vị giảng sư VDP trả lời là trong Tạng VDP không đưa ra tiêu
chí nhưng trong chú giải đưa ra tiêu chí là lấy một người nam trung bình làm
căn cứ, nếu anh ta nhận cảnh trần là tốt đẹp thì cảnh trần là tốt đẹp. Tôi hơi
băn khoăn về điểm này vì có lẽ lại phải xác định thế nào là một người nam trung
bình. Đạo hữu nào biết nguồn tư liệu về vấn đề này xin chỉ dẫn.
- Theo lý thuyết
VDP mà tôi hiểu đến nay thì đối tượng của tâm vô nhân là chân đế, nghĩa là sắc
pháp. Mà theo tôi hiểu đã nói sắc pháp thì là thực tại khách quan, sắc chỉ là
sắc, nếu nói tốt đẹp hay không tốt đẹp thì có lẽ cần có tiêu chí khách quan chứ
không phụ thuộc vào cảm nhận của mỗi người.
August 16 at 8:50pm · Edited · Like
Hoa Nguyen: Thật ra, từ "tiêu chí" rất khó
hiểu. Có phải muốn nói thế nào gọi là đẹp, thế nào là xấu? Nếu vậy thì nên lấy
nhận thức trung bình của con người bình thường để làm mức phân định một sự vật
là đẹp hay xấu (theo quan niệm xưa thì nam nhân là "đại diện" cho con
người bình thường hơn nữ nhân). Nhưng không phải ai cũng "bình
thường" như nhau. Nhiều người do cấu tạo bẩm sinh của não bộ và thân thể
mà có những cảm quan không giống người khác, và phần cảm thọ, nhận thức này
thuộc chủ quan riêng. Tính bẩm sinh ở đây coi như là "vô nhân"
(thường hiểu đến từ nghiệp trước rất khó nhận biết). Tôi không hiểu "sắc
pháp" là chân đế, và sắc pháp đó là đối tượng nhận thức của con người, bao
gồm phần khách quan (ai cũng có) và chủ quan (riêng của mỗi cá nhân). Cho nên
mỗi người thấy đối tượng quan sát đẹp hay xấu không như nhau, có khi rất khác
nhau. Thí dụ người nặng tính sân hận khi nhìn người họ không ưa thích không
thấy những vẻ đẹp có ở đối tượng.
August 16 at 9:20pm · Like
Chí Thiện Cư Sĩ: Theo thiển nghĩ của tôi như vầy :
Trước tiên,
chúng ta sẽ loại trừ trường hợp chúng ta đã biết được do nghiệp gì đã sanh ra
các loại tâm quả vô nhân mà chúng ta đang dùng để tiếp cảnh, bởi vì nếu chúng
ta biết được nguyên nhân rồi thì đương nhiên chúng ta đã có cơ sở để xác định
cảnh đó là xấu hay tốt.
Như vậy, chúng
ta chỉ bàn đến cách nhận biết trong trường hợp chúng ta đối mặt với cảnh mà
hoàn toàn không biết về nghiệp quá khứ.
15 tâm vô nhân
bắt cảnh chơn đế chứ không bắt cảnh tục đế, mà phương diện tốt hay xấu của cảnh
là thuộc về phạm trù tục đế, mà tục đế lại thuộc cảnh pháp. Do vậy, để xét cảnh
bắt được là tốt hay xấu thì phải dựa vào những lộ ý nối tiếp lộ ngũ sau đó, hầu
như tất cả những nghiệp được tạo, tức là sự phản ứng ngược lại với cảnh của
chúng ta thường kết hợp giữa lộ ngũ và lộ ý vào, nhưng vì thời gian của một lộ
trình thật nhanh, nhanh đến nỗi một phẩy móng tay đã có hàng tỷ lộ tâm sanh
khởi, nên chúng ta không phân biệt đâu là lộ ngũ đâu là lộ ý.
Thông thường,
theo chế định cảnh tốt là cảnh toại ý, thu hút chúng sanh, khiến cho chúng sanh
ưa thích hoặc mong muốn, thường làm cho tâm tham và tâm thiện sanh khởi, còn
cảnh xấu là cảnh bất toại ý, không thu hút chúng sanh, khiến cho chúng sanh xa
lánh hoặc không mong muốn, thường làm cho tâm sân sanh khởi. Tuy nhiên, cách
phân biệt này cũng có ngoại lệ, như trường hợp một chúng sanh do thường cận y
duyên thường nổi lòng đố kỵ trước cảnh người khác tạo phước hoặc chúng sanh
trong lúc cúng dường hay bố thí thường có tâm tham nổi dậy hoặc chúng ta hoài
nghi tam bảo. Lại thêm trường hợp các hành giả dùng đề mục tử thi để hành thiền, tử
thi là cảnh khiến cho người ghê sợ nhưng qua sự suy xét về tiến trình hoại diệt
của tử thi thì tâm thiện hợp trí khởi lên rất nhiều.
Tóm lại, chúng
ta muốn phân biệt cảnh tốt hay xấu, thì phải xét hai trường hợp sau:
Trường hợp phổ
biến, xem xét thân hành, khẩu hành, ý hành của chúng ta phản ứng ngược lại cảnh
trong nhiều lộ ý sau đó. Nếu phản ứng đó mang tính ghê sợ, ghét, xa lánh hoặc
hủy diệt đối tượng, tâm sân sanh khởi tại chặn đổng lực, thì đó là cảnh xấu.
Nếu chúng ta bị thu hút vào đối tượng, phát sinh ưa thích, mong muốn, có thể là
sự mong muốn của pháp dục, tâm tham hoặc tâm thiện sanh khởi tại chặn đổng lực,
thì đó là cảnh tốt.
Trường hợp ngoại
lệ, chúng phải dựa vào nhận định phổ thông để xét cảnh, đồng thời chúng ta cũng
phải xét phản ứng trước cảnh. Nếu khi xét thấy đây là cảnh tốt (theo nhận định
phổ biến) nhưng phản ứng ngược lại cảnh là tâm sân hoặc tâm si hoài nghi thì
đây chắc là do thường cận y duyên và do nghiệp quả, ví như trường hợp một người
gặp cảnh chư thiên hiện ra rất kỳ lạ nhưng do bản chất yếu đuối muội lược nhiều
đời kiếp nên không khởi tâm thiện mà khởi tâm sân kinh sợ. Nếu khi xét thấy đây
là cảnh xấu (theo nhận định phổ biến) nhưng tâm sinh khởi là tâm thiện, thì
đây là do sự huân tập và khéo tác ý của chúng sanh ấy, ví như người bị kẻ khác
đánh đập không khởi tâm sân mà khởi tâm thiện do người ấy quán xét thấy kết quả
này do nghiệp quá khứ và nghiệp đủ điều kiện phải trả.
Qua đó, chúng ta
thấy việc đưa ra tiêu chí để phân định cảnh tốt hay cảnh xấu một cách đầy đủ
trọn vẹn là điều rất khó khăn, chắc chỉ có Đức Thế Tôn và các Bậc Lậu Tận mới
làm được điều này. 15 tâm vô nhân và khán ngũ môn chỉ biết cảnh chơn đế trong
lộ ngũ hoặc từng lộ nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân riêng lẻ, còn việc bắt cảnh tục
đế là phận sự của các lộ ý sau đó mà trong đó không có 16 tâm vô nhân.
August 17 at 9:50am · Unlike · 2
Chí Thiện Cư Sĩ: Phân tích trên chỉ xét trong hai lĩnh
vực chơn đế và tục đế, không xét nhiều đến các phạm trù còn lại trong 21 cảnh,
nếu xét đến thì ngũ song thức biết được đến 7 cảnh, đó là Cảnh Sắc Pháp, cảnh
Hiện Tại, Cảnh Dục Giới, Cảnh Chơn Ðế, Cảnh Nội Phần, Cảnh Ngoại Phần và 1
trong 5 Cảnh.
August 17 at 10:01am · Unlike · 2
Thuận Pháp Dhammiko: Nếu Phan Minh Nguyet đọc các cmt trên mà
vẫn chưa tìm ra câu trả lời thỏa đáng thì nên cho qua cái thắc mắc này! Vì đức
Phật nói rằng cái gì thuộc về Nghiệp và quả của nghiệp là điều không thể nghĩ
bàn, công nhận cho khỏe. Vì 15 vô nhân tâm không phải là đối tượng quan trọng
của thiền Vipassanā, những tâm khác như 12 tâm bất thiện, 8 tâm đại thiện, các
sở hữu tâm và các sắc pháp là những đối tượng tốt của thiền Vipassanā.
August 17 at 1:30pm · Like · 2
Minh Quang: Theo Vi diệu pháp, trong đời sống chúng
sinh (cõi dục giới) có 54 Tâm Dục giới gồm (12 tâm bất thiện + 24 tâm dục giới tịnh
hảo + 18 TÂM VÔ NHÂN = 54 tâm).
Ở tầng thiền sắc
giới (từ sơ đến tứ thiền) có 15 tâm Sắc giới.
Ở tầng thiền vô
sắc giới (từ ngũ thiền đến bát thiền) có 12 tâm Vô Sắc giới.
Ở Tâm Siêu Thế
giới (niết bàn) có 8 tâm Siêu Thế.
Như vậy, toàn bộ
mọi trạng thái tâm của chúng ta tất cả có tổng cộng 89 tâm.
Theo Vi diệu
pháp, thì ''Những tâm mà không có sở hữu làm nhân gọi là tâm vô nhân.'' có 15
loại tâm quả vô nhân:
10 tâm là ngũ
song thức
1 tâm tiếp thu
quả bất thiện.
1 tâm tiếp thu
quả thiện .
1 tâm quan sát
quả bất thiện câu hành thọ xả.
1 tâm quan sát
quả thiện câu hành thọ xả.
1 tâm quan sát
quả thiện câu hành thọ hỷ.
Mười tâm quả vô
nhân được phân thành năm đôi, gọi là Ngũ song thức (Dvi pancavinnàna). Chúng
được tóm tắt:
Nhãn thức
(Cakkhuvinnàna): quả bất thiện câu hành với cảm thọ xả, quả thiện câu hành với
cảm thọ xả.
Nhĩ thức
(Sotavinnàna): quả bất thiện câu hành với cảm thọ xả, quả thiện câu hành với
cảm thọ xả.
Tỷ thức
(Ghànavinnàna): quả bất thiện câu hành với cảm thọ xả, quả thiện câu hành với
cảm thọ xả.
Thiệt thức
(Jivhàvinnàna): quả bất thiện câu hành với cảm thọ xả, quả thiện câu hành với
cảm thọ xả.
Thân thức
(Kàyavinnàna): quả bất thiện câu hành với cảm thọ khổ, quả thiện câu hành với
cảm thọ lạc.
Theo Vi diệu
pháp, thì ''Tâm quả là kết quả của nghiệp thiện và nghiệp bất thiện.''...Thấy, nghe, ngửi, nếm và đụng thì không phát sanh một cách ngẫu nhiên; chúng là
kết quả của nghiệp. Nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn và thân căn là sắc
pháp do nghiệp tạo tác, chúng là sắc nghiệp. Chỉ có quả của danh nghiệp thì
được gọi là quả, và như vậy chỉ có tâm và sở hữu mới có thể là quả. Sắc pháp
không phải là quả.
Ðức Phật dạy
rằng mỗi sự vật phát sanh phải có nhân duyên. Khi chúng ta thấy điều gì không
vui thì phải có nhân duyên của nó: đó là kết quả của nghiệp bất thiện. Kết quả
của nghiệp bất thiện thì tương phản với nghiệp thiện. Thấy điều gì vui là quả
thiện; điều này có thể là kết quả của nghiệp thiện. Tâm quả vô nhân phát sanh
khi nó biết một đối tượng bất lạc hay lạc do một trong năm căn. Lúc đó không có
nhân bất thiện hay nhân tịnh hảo phát sanh cùng với tâm....''
MQ liệt kê dài
dòng để chính tự mình có khái niệm về bức tranh (tâm), còn những ai đã biết thì
cùng ôn lại để tìm ra (tiêu chí) để ''... phân biệt cảnh trần tốt đẹp và không
tốt đep...''còn theo ngôn ngữ vdp thì là ''quả bất thiện hoặc quả thiện'' đối
với tâm quả vô nhân.
Theo như giáo lí
đạo phật thì (đau khổ hay hạnh phúc) hoặc (thiện và bất thiện) hay địa ngục (xấu
ác) và thiên đường (đẹp đẽ) có lẽ đều do nghiệp (thiện, ác) tức hành
uẩn (sankhāra), như vậy chừng nào chúng ta còn ở trong tam giới (dục giới, sắc
giới, vô sắc giới) thì chúng ta còn bị lệ thuộc, quyết định bởi nghiệp hay hành
uẩn (sankhāra). thế nên ''cảnh trần tốt đẹp nhất'' có lẽ đó là tâm siêu thế (niết
bàn) và ''cảnh trần không tốt đẹp''có lẽ là cõi dục giới cũng như các cõi thấp
hơn, còn (tiêu chí) để phân biệt, nhận ra dĩ nhiên là thành quả thực hành gặt hái
từ con đường đạo đế (giới, định, tuệ).
http://phathoc.net/thu-vien/luan/gioi-thieu-giang-giai-luan-tang/7ED448_vi_dieu_phap__giang_giai/p11.aspx
http://chuataythien.vn/ad-80797-657/Tam-Vo-Nhan-Ahetuka-Citta-.aspx
http://www.quangduc.com/luan/30vidieuphap09.html
http://phathoc.net/thu-vien/luan/gioi-thieu-giang-giai-luan-tang/7ED448_vi_dieu_phap__giang_giai/p11
phathoc.net
August 17 at 3:23pm · Edited · Like · 2 ·
Remove Preview
Minh Quang: ''...Khi vị A la hán biết cảnh lạc và
cảnh bất lạc do thân căn, vị ấy có thân cảm thọ khổ hoặc thân cảm thọ lạc phát
sanh cùng với tâm quả vô nhân mà gọi là thân thức, nhưng sau tâm quả, vị A la
hán không có tâm bất thiện hoặc tâm thiện; mà chỉ có tâm tốt. Chúng ta xem
trong Tương Ưng Bộ Kinh (IV, Salàyatana-vagga, tương ưng về cảm thọ, quyển 1,
6) mà Ðức Phật dạy cho chư Tỳ khưu:
"Này chư Tỳ
khưu, kẻ vô văn phàm phu cảm nhận lạc thọ, khổ thọ, và xã thọ. Này chư Tỳ khưu,
vị thánh đệ tử đa văn cũng cảm thọ giống như ba cảm thọ trên.
Ở đây này chư Tỳ
khưu, điều gì là đặc thù, điều gì là tối thắng, điều gì là khác biệt giữa bậc
thánh đệ tử đa văn và kẻ vô văn phàm phu."?
"Bạch Thế
Tôn, các pháp chúng con dựa trên lời dạy căn bản của Thế Tôn"..
"Này chư Tỳ
khưu, kẻ vô văn phàm phu khi cảm xúc khổ thọ, sầu muộn, than van, đấm ngực đi
đến bất tỉnh. Vị ấy cảm giác hai lần cảm thọ, thân và tâm... Cảm giác khổ vị ấy
cảm thấy sân hận. Cảm giác sân hận đối với cảm thọ khổ, sân hận ngấm ngầm trong
vị ấy. Cảm giác lạc, vị ấy hoan hỷ trong cảm thọ lạc. Tại sao vậy? Này chư Tỳ
khưu kẻ vô văn phàm phu không thoát ly cảm thọ khổ ngoài dục lạc. Vui thích
trong dục lạc cho nên tham dục lạc ngấm ngầm trong vị ấy..."
Ðây không phải
là đời sống thật sự sao? Khi cảm thọ khổ, chúng ta muốn cảm thọ lạc; chúng ta
tin rằng nó là hạnh phúc thật sự. Chúng ta không thấy đời là khổ. Chúng ta
không muốn thấy bệnh hoạn, già nua và chết chốc, "sầu và bi", và sự
vô thường của pháp hữu vi. Chúng ta hy vọng đời là hạnh phúc và khi bị đau khổ
chúng ta nghĩ rằng lạc thọ có thể chữa trị sự đau khổ của chúng ta và chúng ta
dính mắc vào nó. Theo lời dạy của Ðức Phật về "Pháp duyên khởi" ngài
dạy rằng thọ duyên ái. Không những có cảm thọ lạc và cảm thọ xả duyên ái, mà
còn cảm thọ bất lạc duyên ái, vì người ta muốn thoát khỏi cảm thọ bất lạc
(Thanh tịnh đạo, XVII, 238). Xa hơn nữa, chúng ta xem trong kinh:
...Nếu cảm giác
lạc thọ, vị ấy cảm thấy mình như người bị trói buộc. Nếu cảm giác khổ thọ và xả
thọ, vị ấy cảm thấy mình cũng như người bị trói buộc. Này chư Tỳ khưu kẻ vô văn
phàm phu này được gọi là người bị trói buộc trong sanh, già, chết, sầu, bi,
khổ, ưu, não. Như Lai tuyên bố rằng người ấy bị trói buộc trong đau khổ.
Nhưng này chư Tỳ
khưu, bậc thánh đa văn khi tiếp xúc khổ thọ, không than van, không có khóc lóc,
không có đấm ngực, không có đi đến bất tỉnh. Vị ấy chỉ cảm giác thân thọ mà
không cảm giác tâm thọ ...Nếu vị ấy cảm giác lạc thọ, khổ thọ, xả thọ, cảm giác
nó như người không bị trói buộc. Như vậy này chư Tỳ khưu, Như Lai tuyên bố rằng
vị thánh đệ tử này đã thoát khỏi sự trói buộc của sanh già, bệnh, chết, sầu,
bi, khổ, ưu, não, giải thoát khỏi khổ đau ..."
http://chuataythien.vn/ad-80797-657/Tam-Vo-Nhan-Ahetuka-Citta-.aspx
Tâm Vô Nhân
(Ahetuka Citta) | chuataythien.vn
chuataythien.vn
Tâm Vô Nhân
(Ahetuka Citta) Tâm Lý và Triết học Phật giáo<br/>áp
dụng trong đời...
See More
August 17 at 5:25pm · Like · Remove
Preview
Hoa Nguyen: Tôi thấy câu hỏi đặt ra có gì xa lạ hay
không đúng câu hỏi dành cho đạo Phật, hay cho Vi Diệu Pháp (giả dụ ở một người
thật tâm tìm hiểu đạo). Thế nào là tiêu chí cho tốt đẹp và không tốt đẹp (xấu)
? Cần nói rõ đạo Phật không đặt vấn đề đẹp hay xấu trong nhận thức, đánh giá sự
vật, hành động, mà chủ yếu là xét mọi thứ ở hai phạm trù thiện và bất thiện.
Bất thiện dẫn tới gây đau khổ cho mình và cho người, còn thiện thì trái lại,
đưa tới an vui cho người và cho bản thân. Nhưng ở đây cũng không có tiêu chí,
hiểu như mức phân định rõ, giữa thiện và bất thiện, vì những vô minh, sân,
dục, chấp ngã,... trong con người làm che mờ, đôi khi gây lẫn lộn giữa thiện và
ác. Vẫn thấy có hành động ác được ngụy trang dưới hình thức thiện, tốt, đẹp.
Cho nên tôi thấy câu trả lời của vị sư nào đó về "tiêu chí" tốt xấu
cũng rất "trí tuệ": lấy tầm nhìn trung bình của một người nam bình
thường (người nữ ngày xưa hiểu biết về nhiều mặt của cuộc sống không bằng người
nam).
Bài viết về Tâm
Vô Nhân trên trang chùa Tây Thiên rất hay và có thể cho là đầy đủ. Nhân đây, tôi
thấy có một từ dùng trong Vi diệu pháp vẫn chưa thống nhất giữa các tác giả (có
thể gây bối rối cho người đọc). Đó là tâm sở hữu, tâm sở và sở hữu. Tôi không
biết trong Pali thế nào, nhưng trong tiếng Việt thì "tâm sở hữu" có
nghĩa là những thuộc tính của tâm, thuộc về tâm, như sân, tham, ái dục, tầm,
tứ, từ, bi, hỷ, xả. Tâm sở hữu có thể nói ngắn lại là "tâm sở" cũng
đủ ý. Nhưng nếu chỉ nói là "sở hữu" thì thấy từ dùng thiếu nghĩa.
August 17 at 10:01pm · Like
Minh Quang: ''16. Làm thế nào xác định rằng một hành
động là thiện (kusala) hay bất thiện (akusala)? Dựa trên tiêu chuẩn đạo đức
nào?
Một cách vắn
tắt, cái gì liên hợp với ba căn (mūla) bất thiện (akusala) là bất thiện. Liên
hợp với ba căn thiện (kusala) là thiện.
Cũng như hột
giống được gieo trồng trên đất phì nhiêu sẽ sanh sôi nảy nở, không sớm thì
chầy, tùy theo bản chất riêng của nó.
Cùng thế ấy,
hành động thiện và bất thiện sẽ tạo những hậu quả đáng được ưa thích hay không
đáng được ưa thích, hậu quả ấy được gọi là Vipāka (Quả)''
http://www.budsas.org/uni/u-vdp-ty/vdpty01.htm
Vi Dieu Phap
Toat Yeu - 01
www.budsas.org
Tôi xin thành
kínhn Giác Vô Song, Giáo Pháp Tối Thượng và Giáo Hội Chúng Tăng Cao Quý, và xin
nói về những gì đ
August 17 at
11:16pm · Like · Remove Preview
Minh Quang: 15
tâm quả vô nhân là sự biết cảnh không có bản chất ác xấu (bất thiện) hay tốt
đẹp (thiện),nhưng do trong quá khứ thành tựu bởi Nghiệp Bất Thiện (Tham, Sân,
Si) nên sinh ra 7 (Tâm Quả Bất Thiện Vô Nhân ),còn nếu trong quá khứ thành tựu
bởi Nghiệp Thiện (Vô Tham,vô Sân,vô Si) thì sinh ra 8 (Tâm Quả Thiện Vô Nhân)
tâm quả vô nhân
là các tâm thuộc về''Tâm Lộ Ngũ Môn" tức là 5 căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân,
ý) trực tiếp nhận thức 5 trần cảnh (sắc,thanh,hương,vị,xúc) nó chỉ nhận cảnh
cũng như nghiệp (thiện,ác) từ quá khứ nhưng ở giai đoạn này nó chỉ tiếp diễn
nghiệp cũ nhưng không tạo nghiệp mới. căn thứ 6 (ý căn) nhận thức (pháp trần)
gọi là''Tâm Lộ ý Môn"thì mới có thể tác động đến nghiệp cũ cũng như tạo
nghiệp mới
''...Khi có hai
người trong cùng một hoàn cảnh, một người có thể có phi như lý tác ý và người
kia có thể có như lý tác ý, tùy thuộc vào nghiệp lực của họ. Chúng ta xem trong
Tương Ưng Bộ Kinh (IV, Sanàyatana, Tương Ưng Sáu Xứ, Năm mươi kinh thứ tư, 202,
dục lậu) về vị Tỳ khưu, sau khi có phi như lý tác ý vị ấy biết cảnh xuyên qua
một trong sáu môn, và một vị Tỳ khưu khác có như lý tác ý. Chúng ta xem ngài
Moggallàna dạy chư vị Tỳ khưu:
Này chư hiền
giả, tôi sẽ dạy cho quí vị phương pháp nhiễm dục lậu và phương pháp không nhiễm
dục lậu...
Này chư hiền
giả, thế nào là nhiễm dục lậu?
Này chư hiền
giả, ở đây một vị Tỳ khưu, mắt thấy sắc, tham đắm sắc khả ái, chán ghét sắc không
khả ái, sống không có chánh niệm, và tâm ích kỷ. Vị ấy không biết rõ như thật,
tâm giải thoát và tuệ giải thoát, chính ở đây các ác bất thiện phát sanh chưa
được đoạn trừ.
Này chư hiền
giả, vị Tỳ khưu này được gọi là nhiễm "dục lậu sau khi mắt thấy sắc, tai,
mũi, lưỡi. . .tâm biết cảnh pháp." Khi vị Tỳ khưu an trú như vậy, này chư
hiền giả, này chư hiền giả, nếu Ma vương [5] đến với vị ấy bằng mắt, Ma vương
nắm lấy cơ hội. Nếu ma vương đến vị ấy bằng lưỡi...bằng tâm, Ma vương nắm lấy
đối tượng, nắm lấy cơ hội...
Này chư hiền
giả, sống như vậy, cảnh sắc chinh phục vị Tỳ khưu, vị Tỳ khưu không chinh phục
cảnh sắc. Cảnh thinh, hương, vị, xúc, và cảnh pháp chinh phục vị Tỳ khưu, không
phải vị Tỳ khưu chinh phục cảnh pháp. Này chư hiền giả, vị Tỳ khưu này được gọi
là "người bị sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp chinh phục". Vị ấy bị
các ác bất thiện pháp, nhiễm ô chinh phục, dẫn đến tái sanh, đầy sợ hãi, quả
đau khổ, tương lai của vị đó tái sanh, già và chết. Như vậy này chư hiền giả,
vị ấy bị nhiễm dục lậu.
Và này chư hiền
giả, thế nào là người không bị nhiễm dục lậu?
Ở đây, này chư
hiền giả, một vị Tỳ khưu mắt thấy sắc, không tham đắm sắc khả ái, không chán
ghét sắc không khả ái...
Lưỡi nếm vị... ý
biết cảnh pháp, vị ấy không tham đắm pháp khả ái, không ghét bỏ pháp không khả
ái, nhưng sống an trú chánh niệm, với tâm vô lượng. Cho nên vị ấy biết rõ như
thật, tâm giải thoát, tuệ giải thoát, chính nơi đây, các ác bất thiện pháp phát
sanh được đoạn trừ hoàn toàn.
Này chư hiền
giả, vị Tỳ khưu này được gọi là không bị nhiễm dục lậu sau khi mắt thấy
sắc...không nhiễm dục lậu sau khi ý biết cảnh pháp. Sống như vậy, này chư hiền
giả, nếu Ma vương đến với vị ấy bằng mắt, bằng lưỡi, bằng ý...ma vương không
nắm bắt đối tượng, không nắm được cơ hội...
Vã lại, này chư
hiền giả, sống như vậy là vị Tỳ khưu chinh phục sắc, các sắc không chinh phục
vị ấy. Vị ấy chinh phục cảnh thinh, hương, vị, xúc, pháp. Và chúng không chinh
phục vị ấy. Như vậy này chư hiền giả một vị Tỳ khưu được gọi là "người
chinh phục sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp". Vị ấy chinh phục các ác bất
thiện pháp, nhiễm ô, dẫn đến tái sanh, đầy sợ hãi, kết quả là đau khổ, sanh,
già và chết. Như vậy này chư hiền giả, vị đó đã thoát khỏi dục lậu. ''
http://phathoc.net/thu-vien/luan/gioi-thieu-giang-giai-luan-tang/7ED448_vi_dieu_phap__giang_giai/p6.aspx
Phật Học Online
- Thư Viện - Vi Diệu Pháp - Giảng Giải
phathoc.net
Phật Học Online
- Thư Viện
August 19 at 9:48am · Edited · Like · 1 ·
Remove Preview
Minh Quang: Bạn nói tâm vô nhân nhận cảnh chân đế (thì
mình cũng hiểu có lẽ chắc là vậy) dù mình nghĩ rằng (chân đế của phàm phu thì
khác xa chân đế của các vị hữu học).
Chẳng hạn, khi
chúng ta đọc mọi giáo lí kinh điển miêu tả về tứ thiền...(chân lí qui ước - tục
đế), nhưng nếu cơ duyên đến bạn thực sự nếm trải bằng giác quan trực tiếp các
tầng thiền, thì mới là (chân đế). Hoặc chưa từng biết bơi, bạn đọc hoặc nghe về bơi
lội (tục đế), còn nếu tự bạn lội xuống nước học bơi, trải nghiệm bằng 5 giác
quan, đó là (chân đế).
August 18 at 2:16pm · Like
Chí Thiện Cư Sĩ: Pháp chơn đế bao gồm tâm, tâm sở, sắc
pháp và niết bàn. Đây là chơn tướng thật sự của mọi thứ trên thế gian. Trong
đó, sắc pháp gồm tứ đại minh (đất, nước, gió, lửa) làm gốc để sinh ra 24 sắc y
sinh. Như vậy, xét đến vật chất thì tất cả mọi dạng vật chất đều cấu tạo từ tứ
đại.
Tuy nhiên, chúng
sanh không nhận ra điều đó, đã dùng cách chế định để đặt cho tất cả mọi thứ
trên thế gian từ vật chất đến tinh thần theo cách của thế tục, trong đó những pháp
hữu vi nào sinh khởi do nghiệp thiện khiến cho chúng sanh hài lòng thì thường
được gọi là tốt đẹp, còn những pháp hữu vi nào sinh khởi do nghiệp ác, khiến
cho chúng sanh bất toại ý thường được gọi là xấu, không tốt, cách định đặt này
có ngoại lệ như bạn đã biết.
Như vậy, 15 tâm
vô nhân bắt cảnh chơn đế, cụ thể là sắc pháp, điều này sẽ diễn ra trong lộ ngũ.
Còn cảnh này là tốt hay xấu (tất cả cảnh đều từ tứ đại minh) theo cách chế định
của chúng sanh (tục đế) sẽ được diễn ra trong lộ ý nối lộ ngũ, nhưng nên nhớ lộ
ý bắt được cả hai cảnh chơn đế và tục đế.
Nếu bạn nắm được
tiến trình này, bạn sẽ không thấy được mâu thuẫn ở những điều bạn nêu ra. Như
bạn cũng biết, khi hành vipassana, chúng ta luôn cần phải biết rõ mọi pháp sinh
khởi ở gốc độ chơn đế và loại bỏ mọi khái niệm tục đế ở trong tuệ thứ nhất là
tuệ phân biệt danh và sắc là vậy.
August 18 at 2:28pm · Like · 1
Chí Thiện Cư Sĩ: Tài liệu "Quy Trình Tâm Pháp" của Tỳ Khưu Chánh Minh giảng rất rõ, bạn có thể nghiên cứu thêm.
August 18 at 2:34pm · Like
Phan Minh Nguyet: Cảm ơn Chí Thiện Cư Sĩ. Tôi cũng đang
định đọc cuốn đó!
August 18 at 4:08pm · Edited · Like
Mi Yoen Nguyen: Giải thích thì hơi dài dòng, con xin đưa
ra 1 ví dụ: cà phê có vị đắng. Có người thích vị đắng của cà phê, có người
không thích vị đắng ấy. Nhưng không vì người thích hay không thích (nó qua tới
lộ trình tâm khác rồi) mà bản chất "đắng" của cà phê thay đổi. Tỷ
thức thọ xả quả bất thiện sẽ là tâm biết cảnh này vì "đắng" là cảnh
vị không tốt đẹp.
August 18 at 5:15pm · Like
Minh Quang: Theo VDP (Nam Tông) thì 5 căn thức (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân) gọi là ngũ song thức (lộ ngũ môn), gọi là TÂM QUẢ VÔ
NHÂN, còn căn thức thứ 6 (ý căn) thuộc (lộ ý môn).
Theo Duy Thức (Bắc Tông) thì 6 căn thức (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân, ý), riêng về Ý mở rộng thành 3 gồm: Ý
thức + Mạt na thức + A lại da thức, như vậy có 8 tâm gọi là (TÂM VƯƠNG).
http://www.tangthuphathoc.net/duythuchoc/duythuchoc.htm
Như vậy, có 1 số
sai biệt về về cách hiểu:
1. Năm căn thức
thuộc căn môn (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân) theo VDP thì thuộc TÂM QUẢ VÔ NHÂN; còn năm
căn thức + Ý thức + Mạt na thức + A lại da thức, theo Duy Thức thì thuộc TÂM
VƯƠNG.
2. Theo VDP (TÂM
VƯƠNG) và 52 TÂM SỞ (các trạng thái tâm) theo định nghĩa thì: ''Năm mươi hai
trạng thái tâm đồng liên hợp với tâm vương, đồng phát sanh và đồng hoại diệt
cùng tâm vương, đồng có một đối tượng và một căn cùng tâm vương''.
3. Nếu theo đn
thì chúng ta hiểu không khi nào có tâm vương đứng độc lập cũng như không khi
nào có tâm sở đứng độc lập, mà chúng phải ''đồng phát sanh và đồng hoại diệt''.
Nếu như vậy (theo Duy Thức), phân chia 8 tâm vương đứng độc lập thì hiểu như thế nào? Cũng như 5
căn thức (mắt, mũi, tai, lưỡi, thân) theo VDP nó thuộc (TÂM QUẢ VÔ NHÂN), còn theo Duy Thức nó thuộc (TÂM VƯƠNG) thì cách gọi nào đúng?
MQ thấy thật khó
hiểu, các quí đạo hữu có kiến giải gì về vấn đề này!
Duy Thuc Hoc
www.tangthuphathoc.net
Duy Thức Học
Nhập Môn Ngài THIÊN THÂN ...
See More
August 19 at 4:42pm · Edited · Like · 1 ·
Remove Preview
Hoa Nguyen: Nếu so sánh Vi Diệu pháp và Duy Thức học
sẽ thấy nhiều khác biệt, vậy tạm thời không nên "phân tâm" làm việc
đó. Nhắc lại theo Vi Diệu pháp có 6 tâm :
1. Tâm Nhãn Thức
(Cakkhuviññāṇa): là tâm nương nhãn vật, biết cảnh sắc, hình ảnh. Gồm có 2 tâm.
2. Tâm Nhĩ Thức
(Sotaviññāṇa): là tâm nương nhĩ vật, biết cảnh thinh. Có tất cả là 2 tâm nhĩ
thức.
3. Tâm Tỷ Thức
(Ghānaviññāṇa): là tâm nương tỷ vật, biết cảnh khí (các mùi). Gồm có 2 tâm.
4. Tâm Thiệt
Thức (Jivhāviññāṇa): là tâm nương thiệt vật, nhận biết cảnh vị (các vị cay,
chua, mặn,...). Gồm có 2 tâm.
5. Tâm Thân Thức
(Kāyaviññāṇa): là tâm nương thân vật, nhận thức cảnh xúc (sự va chạm, nóng,
lạnh, ...). Gồm có 2 tâm.
6. Tâm Ý Thức
(Mana viññāṇa): là tâm bắt cảnh pháp, là cảnh trạng khởi lên trong tâm. Có tất
cả 111 tâm (trừ ngũ song thức).
(Theo Tỳ kheo
Giác Chánh).
August 19 at 8:57pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Trong Siêu Lý Học, Tỳ kheo Giác Chánh
chia làm 6 loại tâm chứ không phải 6 tâm.
Nếu so sánh với
Luận Thành Duy Thức thì 6 loại tâm trong Siêu Lý Học tương ứng từ thức thứ nhất
đến thức thứ 6. Còn không biết thức thứ 7 là Mạt-na và thức thứ 8 là A-lại-da
trong Duy Thức không biết ở đâu ra??? Có thể đây là 2 pháp chế định chứ không
phải chơn đế!
August 19 at 9:21pm · Edited · Like
Hoa Nguyen: Manas dịch là Ý thì trong Pali cũng có
nói tới. Theo Duy thức học, các Thức đều có "Căn" (là nơi thức nương
tựa, hay sinh ra thức), như nhãn thức có nhãn căn, nhĩ thức có nhĩ căn, vậy Ý
thức (thức thứ 6) cũng phải có căn của nó và đó là Ý căn hay là Manas (phiên âm
Hán Việt là Mạt na). Vậy Mạt na thức (Skt. manas-vijñāna) hiểu là Ý căn, và Duy
thức học cho nó có tính chấp Alaya là ngã, cũng là nơi chứa các bản năng bẩm
sinh (như bản năng sinh tồn). Alaya có lẽ là phần mở rộng hơn ý nghĩa của Tâm Hữu
phần (tâm Hộ kiếp) của VDP, nhưng tôi không có tài liệu so sánh nhiều hơn.
Trong DTH , Alaya biến thành thức và là nơi tàng chứa các chủng tử do nghiệp
chuyển (từ kiếp trước) và do sinh tạo thêm khi hành nghiệp ở hiện kiếp. Theo Vi
Diệu Pháp hình như khi chết tâm Hữu phần sẽ chuyển kiếp; còn theo Duy Thức Học
Mạt-na thức và Alaya thức sẽ còn lại sau khi sắc thân tan rã và được chuyển qua
kiếp sau (cùng với một số chủng tử).
August 19 at 9:47pm · Like
Hoa Nguyen: Thành thật luận thuộc về Kinh lượng bộ
(Sautrāntika).
Thức Alaya đã
được nói tới, trong quan điểm của Kinh lượng bộ thời bộ phái, và có lẽ cũng
trong vài bộ phái khác. Trích đoạn sau đây viết về Kinh lượng bộ (Sautrāntika).
Về Kinh lượng
bộ, tất cả các tư liệu đều thống nhất xem đây là một học phái sinh ra từ Nhất
thiết hữu bộ (Sarvāstivāda). Các tư liệu Tây bắc cho rằng đây là học phái xuất
hiện cuối cùng trong số các học phái cổ xưa, vào thế kỷ thứ 4 sau Phật diệt độ.
Theo Paramārtha, người của học phái này truyền dạy rằng năm uẩn đều chuyển trú
từ hiện hữu này đến hiện hữu khác, do đó, học phái này thừa nhận thẩm quyền của
Kinh tạng nên cũng được gọi là “người tôn nhận Kinh” (Sautrāntika; Hán dịch:
Kinh lượng bộ). Kinh lượng bộ cho rằng có một thức tinh vi hơn thức thông
thường, từ đó đời sống con người sinh ra và chính thức đó sẽ tái sinh. So sánh
với Độc Tử bộ (Vatsīputrīya) – là bộ phái cho rằng có một tự ngã thật sự, sống
kiếp này qua kiếp khác – thì Kinh lượng bộ cho rằng, chỉ có thức là luân chuyển
trong vòng sinh tử và với cái chết thì bốn uẩn còn lại (ngũ uẩn, sa.
pañcaskandha) chìm lắng trong thức đó. Quan điểm về sự tồn tại của thức này đã
đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành Duy thức tông (Vijñānavādin,
Yogācāra).
August 19 at
10:01pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Thông tin của bác HN rất thú vị! Như vậy
Mạt na thức (Skt. manas-vijñāna) chỉ là Ý căn thôi, không phải tâm hay thức.
Còn Alaya thức
theo DTH giải thích:
4. Ba thọ: Thức
này chỉ có "Xả thọ".
5. Ba cõi: Thức
này tuỳ nghiệp lực dẫn sanh trong ba cõi.
6. Chín Địa:Trong
chín địa đều có thức này.
7. Tâm sở: Thức
này chỉ tương ưng với 5 món biến hành; song trong 5 thọ thì nó chỉ có "Xả
thọ".
8. Chín duyên:
thức này chỉ có 4 duyên: a. Căn (Mạt ma), b. Cảnh (Căn thân, thế giới và chủng
tử), c. Tác ý, d. Chủng tử.
Như vậy Alaya
thức chính là Tâm suy đạt thọ xả (Santirāṇacitta) làm phận sự Hữu phần
(Bhavanga) và phận sự tái sanh(Patisandhi) và chết(Cuti).
August 19 at 10:11pm · Edited · Like
Minh Quang: Chúng ta tạm thời bỏ qua cách gọi
tên (qui ước) mà hãy nhìn sâu vào bản chất để xem những điều giống và khác chẳng
hạn về tên gọi thì VDP gọi 5 căn thức (nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân) là (ngũ song
thức) thuộc tâm quả vô nhân còn theo duy thức gọi 5 căn thức đó là (tiền ngũ thức) thuộc tâm vương.
Theo VDP, 5 căn
thức (ngũ song thức) không thể độc lập mà phải bị chi phối bởi
nghiệp (thiện, ác) quá khứ, cũng như chính các tâm sở ''đồng phát sanh và đồng hoại
diệt" với tâm.
Còn theo duy
thức, 5 căn thức (tiền ngũ thức) không thấy nhắc đến các manh mối về các tâm
sở ''đồng phát sanh và đồng hoại diệt" với tâm, cũng như không thấy đề cập vấn đề
nghiệp (thiện, ác) quá khứ.
August 19 at 10:35pm · Edited · Like
Hoa Nguyen: Chúng ta không thể bàn về Duy Thức học
khi chưa đọc nhiều, không thấy DTH nhắc tới gì là vì ở chỗ đó tác giả bài
viết vắn tắt về DTH không nói tới.
August 19 at 10:36pm · Like
Hoa Nguyen: Để thí dụ về v/d Duy Thức học ở trên,
tôi trích đoạn giải thích sau đây của HT Thích Thiện Hoa về DTH :
"Chữ
"TÂM" có nhiều nghĩa, nhưng tóm lại có 6 nghĩa:
1. Tập khởi:
Chứa nhóm và phát khởi. Nghĩa này thuộc về thức thứ Tám (Tàng thức). Vì thức
này có công năng "chứa nhóm" chủng tử của các pháp, rồi "phát
khởi" ra hiện hành.
2. Tích tập:
Chứa nhóm. Nghĩa này thuộc về bảy thức trước. Vì bảy thức trước có công năng
"chứa nhóm" các pháp hiện hành để huân vào Tàng thức.
Trái lại, Bảy
thức trước cũng có nghĩa "tập khởi" (chứa nhóm và phát khởi), vì bảy
thức trước có công năng "chứa nhóm" các pháp hiện hành, để huân vào
Tàng thức, "khởi thành" chủng tự." (hết trích)
Chú ý câu viết: "Bảy thức trước cũng có nghĩa "tập khởi" (chứa nhóm và phát
khởi) ". Ngũ thức (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân) nằm trong "Bảy thức
thức" (thêm ý thức, mạt-na) có công năng "chứa nhóm và phát
khởi". Phát khởi là lấy những chủng tử có sẵn trong Tàng thức (Alaya) mà
làm hiện hành. Những chủng tử ở trong Alaya đã có từ kiếp trước, hay có từ một
quá khứ gần, sẽ có ảnh hưởng (tác động) đến ngũ thức trong hiện tại.
Ghi chú thêm
"Tâm" ở trên là nói 8 Tâm vương, gồm 8 thức.
August 19 at 11:06pm · Like
Hoa Nguyen: Nói thêm về vấn đề trên.
Theo sách Duy
Thức Học Nhập Môn do HT THÍCH THIỆN HOA dịch và lược giải, tám thức phát khởi
bởi những Duyên, và trong những Duyên tạo ra mỗi thức đó đều có (duyên) chủng
tử. Để so sánh thì "Duyên "(điều kiện tạo thành) trong Duy Thức học
tương đương với "Nhân sanh" (Uppattahetu) là nguyên nhân làm phát
sanh pháp hữu vi nói trong Vi Diệu Pháp. Còn chủng tử trong Duy thức học tương
đương với "Tâm quả vô nhân" (Ahetukāvipākacitta) là những tâm thành
tựu bởi những nhân thiện hay bất thiện đã gây ra trong kiếp quá khứ".
(Khác nhau chăng là DTH gọi là duyên và Vi Diệu pháp gọi là nhân)!
Trích sách dẫn
trên:
Tám thức và các
duyên:
Nhãn thức, có 9
duyên: 1. Hư không, 2. Ánh sáng, 3. Căn, 4. Cảnh, 5. Tác ý, 6. Phân biệt y, 7.
Nhiễm tịnh y, 8. Căn bản y, 9. Chủng tử.
Nhĩ thức, có 8
duyên: Các duyên cũng đồng như Nhãn thức trên, chỉ trừ " ánh sáng".
Ba thức: Tỹ,
Thiệt và Thân, lại còn có 7 duyên: Các duyên đồng như Nhãn thức trên, chỉ bớt 2
duyên là Hư không và Ánh sáng.
Ý thức,có 5
duyên: 1. Căn, 2. Cảnh, 3. Tác ý, 4. Căn bản y, 5. Chủng tử.
Mạt na thức, có
3 duyên: 1. Căn cảnh, 2. Tác ý, 3. Chủng tử.
A lại da thức,
có 3 duyên: 1. Căn (Mạt na), 2. Cảnh (thân căn, khí giới và chủng tử), 3. Tác
ý, 4. Chủng tử.
August 20 at 5:11am · Like
Kan Trần: Mưa Saigon viết "Đã là tâm vô nhân
thì là Chân đế vì nó không có nhân, nó là hậu quả và diễn ra tự động, ngay cả
tất cả tâm và tâm sở đều là Chân đế, nên miễn bàn khi nào nó là Chân Đế hay Tục
đế. "
Dạ thưa bạn,
- Chân đế thì
không liên quan gì đến "có nhân" hay "không nhân". VDP chia
Chân đế làm bốn loại: Tâm, Tâm Sở, Sắc, Niết Bàn; trong đó 3 loại đầu là
"có nhân" (hữu vi) và cái sau cùng là "không nhân" (vô vi).
Nên viết "...là Chân đế vì nó không có nhân" là không chính xác.
- Khi A không có
nhân thì A là hậu quả của cái gì? Đương nhiên nó chẳng là hậu quả của cái gì
cả. Nên viết "nó là hậu quả" thì cũng không chính xác.
- Khái niệm
"tâm vô nhân" làm nảy sinh 1 vấn đề. Xin phép được bàn tiếp dưới đây.
October 2 at 11:06pm · Like · 1
Kan Trần: Thuận Pháp Dhammiko viết "Trong
thế giới hữu vi của chúng ta, pháp chơn đế bao gồm 89 tâm, 52 tâm sở, 28 sắc
vật chất, nên những đối tượng liên quan với chúng đều là đối tượng chơn đế, trừ
những cái này ra là đối tượng của tục đế. "
Dạ thưa bạn,
Bạn có thể cho
biết "những đối tượng liên quan với chúng" ở đây là những đối tượng
nào? Vì theo VDP thì chỉ có 3 loại chân đế hữu vi là Tâm, Tâm Sở, Sắc. Xin cảm
ơn bạn.
October 2 at
11:45pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: "Những đối tượng liên quan" là
đối tượng của tâm. Có đối tượng thì tâm mới sinh lên được. Cho nên tâm, sắc
pháp hay Niết-bàn đều là đối tượng của tâm hết.
October 2 at 11:51pm · Like
Nếu xét chân đế
- tục đế theo phân loại kiểu VDP thì ít nhất chúng ta cũng "sờ" được
3 loại chân đế: Tâm, Tâm Sở, Sắc. :D
October 2 at 11:55pm · Like · 2
October 2 at 11:55pm · Like
"- Chơn đế
là cái thực và kinh nghiệm trực tiếp được.
- Do đó chơn đế
có nhiều thuộc tính để cảm nhận."
Mình xin được
hỏi bạn, bạn đã "kinh nghiệm trực tiếp" và "cảm nhận" được
Niết Bàn - 1 loại chân đế - như thế nào? :-)
October 3 at 12:09am · Like
Bạn viết "
Tâm có cái có nhân có cái không nhân. Sắc thì không có nhân. Niết-bàn đúng là
pháp vô vi nên không bàn luận. "
Câu trả lời này
chưa thỏa đáng. Mình sẽ phân tích sau. Cảm ơn bạn đã trả lời. :-)
October 3 at 12:16am · Like
October 3 at 12:27am · Like
Phạm Doãn: Bây giờ hơn nửa đêm rồi. Nhưng Kant cứ
monologue đi vì cũng vẫn có người nghe!
October 3 at 1:39am · Like · 1
Con đang viết
còm đây ạ! :D con nhờ chú xóa bớt chữ T trong chữ "Kant" chứ không là
tiêu con ạ! :D
October 3 at 1:47am · Like
Bạn viết đại ý
“lấy cái hữu vi để phân tích về cái vô vi là không thể, phân tích cả đời cũng
không xong.” Tôi xin được trả lời bạn như sau:
Thứ nhất, quan
điểm của các luận sư Thượng Tọa Bộ Theravada về Tứ Diệu Đế được mô tả trong tập
Kathavatthu (Ngữ Tông) thuộc Vi Diệu Pháp của bộ phái này như sau:
- Khổ Đế, Tập
Đế, Đạo Đế là hữu vi.
- Diệt Đế (Niết
Bàn) là vô vi.
http://www.budsas.org/uni/u-vdp5/vdp5-05.htm
(chương VI.3: vấn đề tứ đế)
Ta biết Đạo Đế
nghĩa là con đường dẫn tới Diệt Đế, nghĩa là hữu vi dẫn tới vô vi. Khi bạn thừa
nhận hữu vi không thể dẫn tới vô vi, nghĩa là bạn đã bác bỏ luôn Đạo Đế (Bát
Chính Đạo) vì nó không thể dẫn tới Niết Bàn, hay Đạo Đế không thể dẫn tới Diệt
Đế! Thật phi lý phải không ạ!
Đây là điểm phi
lý, mâu thuẫn mà các luận sư A-tì-đàm (Vi Diệu Pháp) Theravada đã mắc phải khi
cố gắng xây dựng một “học thuyết về các pháp” mà khái niệm “hữu vi – vô vi” chỉ
là một trong số những mâu thuẫn đó.
Thứ hai, cá nhân
tôi không đồng ý với cách phân loại hữu vi – vô vi mà các luận sư A-tì-đàm (Vi
Diệu Pháp) chủ trương, bởi lý do tôi vừa nêu. Không phải ngẫu nhiên mà sau thời
kì bộ phái, các nhà Đại thừa đã đưa ra những khái niệm như “Phật tính”
(Buddha-dhātu, Tathāgatagarbha), “Tam thân” (Trikaya), hay chủ trương “tất cả
chúng sinh đều có Phật tính” là để sửa chữa lại những mâu thuẫn mà các luận sư
A-tì-đàm đã tạo ra trong khái niệm hữu vi – vô vi, với ý nghĩa rằng: Trong mỗi
chúng sinh đã sẵn hạt giống vô vi rồi, chỉ cần phát triển nó lên.
Cá nhân tôi nghĩ
rằng các luận sư A-tì-đàm là những người đã gián tiếp giúp cho tư tưởng Đại
thừa ra đời và phát triển.
Thứ ba, các bộ
Vi Diệu Pháp nổi tiếng bởi tính chất phân tích, lý luận của chúng. Nên những
nhận xét về chúng nhất thiết phải bằng phân tích, đúng như cách mà các luận sư
Theravada đã làm trong tập Kathavatthu. Sau đây tôi thử phân tích thêm một khái
niệm thuộc Vi Diệu Pháp, đó là “tâm vô nhân”.
(tiếp)
Bo Ngu Tong - 05
www.budsas.org
Theo chú giải:
Quan niệm này của pháiUttarāpattakas,vì thấy Yasa - con trai ngườ...
See More
October 3 at 1:49am · Edited · Like · 2 ·
Remove Preview
Phạm Doãn: Tôi nghĩ cái gọi là "Chân Đế"
hay 'Tục Đế" trong Đạo Phật không có ý nghĩa tuyệt đối lắm. Trước hết cách
chia ra Chân đế và Tục đế là dựa vào một “hệ thống quy chiếu”. Trong Đạo Phật,
chắc hẳn "Con Đường dẫn đến Nibbana" phải là hệ thống quy chiếu cho
cái phân loại Đúng-Sai, Chánh-Tà, Thiện-Ác, v.v... và chắc hẳn cũng là hệ quy
chiếu cho cái gọi là Chân Đế hay Tục Đế.
---
Nói như vậy, nếu
dùng lý luận hay triết lý để phê phán cách chia hai phạm trù Chân đế và Tục đế
một cách đơn thuần, mà không đi kèm theo hệ quy chiếu của nó thì có thể dẫn đến
sự hiểu lầm giáo pháp của Đức Phật.
Tại sao tôi lại
suy nghĩ như vậy?
- Vì như theo
tôi đọc hiểu, thì Đức Phật đã tránh trả lời các vấn đề siêu hình mà không mang
lại lợi ích thực tiễn như sự giải thoát khỏi khổ đau, sự luân hồi tái sinh.
- Do đó sự phân
chia Chân Đế-Tục Đế trong Đạo Phật chỉ nhằm phục vụ cho sự vạch rõ Con Đường
Giải Thoát. Mà không phải có ý phân biệt đâu là cái chân lý tuyệt đối (Chân-đế)
đâu là cái hiện tượng tương đối (Tục đế).
Nói cho có lý
luận chặt chẽ và bằng chứng cụ thể hơn nữa thì vượt quá kích cở của comment
trong đêm :P
---
Viết com xong
rồi thì thấy có link đến bộ Ngũ Tông! Chưa đọc! Nhột không dám post.
Nhưng không post
thì cũng uổng công viết com. Nên post luôn cho zui! rồi đi ngủ!
October 3 at 2:08am · Edited · Like · 2
"Nói như
vậy, nếu dùng lý luận hay triết lý để phê phán cách chia hai phạm trù Chân đế
và Tục đế một cách đơn thuần, mà không đi kèm theo hệ quy chiếu của nó thì có
thể dẫn đến sự hiểu lầm giáo pháp của Đức Phật."
Con cũng nghĩ
như chú. Bởi vậy trong phạm vi thread này, con luôn viết là "Chân đế - Tục
đế theo quan niệm Vi Diệu Pháp". Cá nhân con không đồng ý với cách phân
loại này của VDP, nhưng không thể còm thêm vì cũng quá kích cỡ của còm meng
trong đêm ạ! :P
"Do đó sự
phân chia Chân Đế - Tục Đế trong Đạo Phật chỉ nhằm phục vụ cho sự vạch rõ Con
Đường Giai Thoát. Mà không phải có ý phân biệt đâu là cái chân lý tuyệt đối
(Chân-đế) đâu là cái hiện tượng tương đối (Tục đế) "
Con hoàn toàn
suy nghĩ như chú ở điểm này ạ!
Kính.
October 3 at 2:11am · Like · 1
Trích
I. PÀLI VĂN.
- 7) Upekkhàsahagatam
cakkhuvinnànam, tathà sotavinnànam, ghànavinnànam, jivhàvinnànam,
dukkhasahagatam kàyavinnànam, upekkhàsahagatam sampaticchanacittam,
upekkhàsahagatam santìranacittanceti. Imàni satta pi akusalavipàkàhetukacittàni
nàma.
II. THÍCH VĂN.
- Cakkhuvinnànam:
Nhãn thức. Tathà: Cũng như vậy. Sotavinnànam: Nhĩ thức. Ghànavinnànam: Tỷ thức.
Jivhàvinnànam: Thiệt thức. Dukkhasahagatam: Câu hữu với khổ. Kàyàvinnànam: Thân
thức. Sampaticchanacittam: Tiếp thọ tâm. Santìranacitam: Suy đạc tâm. Imàni
satta: Bảy (tâm) này. Akusalavipàka: Bất thiện dị thục. Ahetuka: Vô nhân.
III. VIỆT VĂN.
- 7) Nhãn thức
câu hữu với xả, cũng vậy nhĩ thức, tỷ thức, thiệt thức, thân thức câu hữu với
khổ, tiếp thọ tâm câu hữu với xả, suy đạc tâm câu hữu với xả. Bảy tâm này gọi
là Bất thiện dị thục vô nhân tâm.
http://www.budsas.org/uni/u-vdp-mc/vdpmc01.htm
(hết trích)
1) “Nhãn Thức
câu hữu với Xả là một Bất thiện dị thục vô nhân tâm (Tâm quả - không nhân - bất
thiện )”.
- Phân tích: Vậy
nếu không có Nhãn Thức hoặc không có Xả, hoặc Nhãn Thức không câu hữu với Xả,
thì không có Bất thiện dị thục vô nhân tâm này. (VD người mù mắt bẩm sinh thì
không có nhãn thức). Như vậy Tâm này có lúc tồn tại có lúc không, mà một pháp
Chân đế thì không thể có tính chất như vậy. Suy ra Tâm này không phải là một
pháp Chân đế. Vô lý. Các Tâm khác cũng tương tự.
2) Tâm này là
“vô nhân”. Theo chú giải thì “vô nhân” ở đây nghĩa là “không có 1 trong số 6
nhân: tham – sân – si – không tham – không sân – không si”.
- Phân tích: Vậy
có 2 trường hợp:
TH1: Tâm này
không có bất kỳ nhân nào hết (vô vi). Như vậy, Tâm này phải thuộc Niết Bàn vô
vi, trong khi đó VDP xếp Tâm vào nhóm hữu vi. Vô lý.
TH2: Tâm này có
một hay nhiều nhân khác với 6 nhân trên. Vì tâm này có nhân nên do duyên sinh.
Vì do duyên sinh nên Tâm này không thể là pháp Chân đế, vì pháp Chân đế không
do duyên sinh. Trong khi đó, VDP coi Tâm là một Chân đế. Vô lý.
3) Tâm này là
“tâm quả”.
- Phân tích: Nếu
nó là tâm quả thì nó phải có nhân. Theo TH2 vừa nêu trên cũng dẫn tới vô lý.
Tóm lại, từ ba phân
tích trên, dẫn tới khái niệm “bất thiện dị thục vô nhân tâm” là hoàn toàn vô
lý.
Cá nhân tôi cho
rằng các bộ Vi Diệu Pháp của các luận sư A-tì-đàm chứa rất nhiều điểm mâu
thuẫn, phi lý nằm trong những khái niệm cốt tủy, mà ở đây tôi đã minh họa bằng hai
phân tích về “hữu vi – vô vi” và “vô nhân tâm”. Tôi mong rằng có dịp thuận tiện
tôi sẽ phân tích sâu hơn những khái niệm nền tảng khác trong VDP, chẳng hạn
Pháp – dhamma.
Cá nhân tôi cho
rằng VDP có tính chất của một học thuyết nhiều hơn là một phương pháp thực
hành. Mà đã là học thuyết thì dù có cố gắng xây dựng chặt chẽ tới đâu thì vẫn
luôn chứa những mâu thuẫn nội tại.
Kính.
Thang Phap Tap
Yeu - 01
www.budsas.org
- 3) Tattha
katamam kàmàvacaram? Somanassasahagatam ditthigatasampayuttam ...
See More
October 3 at 2:55am · Edited · Like · 1 ·
Remove Preview
Phạm Doãn: Kan
Trần:
- “Cá nhân tôi
cho rằng các bộ Vi Diệu Pháp của các luận sư A-tì-đàm chứa rất nhiều điểm mâu
thuẫn, phi lý nằm trong những khái niệm cốt tủy…”
- “Cá nhân tôi
cho rằng VDP có tính chất của một học thuyết nhiều hơn là một phương pháp thực
hành. Mà đã là học thuyết thì dù có cố gắng xây dựng chặt chẽ tới đâu thì vẫn
luôn chứa những mâu thuẫn nội tại.”
Phạm Doãn xin
góp ý thêm:
- Vi Diệu Pháp
đương nhiên là phần lý thuyết của Đạo Phật.
- Nhưng VDP,
theo tôi, không phải là công trình của các luận sư! (hàm ý những người chỉ có
pháp học mà không thành tựu trong pháp hành)
- Dù chỉ xuất
hiện ở lần kết tập thứ hai, nhưng căn cứ vào các thông tin (không thể liệt kê
ra đây ngay được), VDP có thể là công trình được khởi đầu từ sự phân tích trải
nghiệm của Ngài Sariputta (người thực hành rất tốt) và lần lược được bổ sung
tiếp bởi các thế hệ đệ tử sau đó trong nhóm của ngài Sariputta.
- Không cần bàn
cãi nhiều. Với triết lý cơ bản ta cũng có thể thấy ngay cái CHÂN ĐẾ duy nhất
(hiển nhiên không cần phải tranh cãi) là NIBBANA. Nibbana không có nhân, không
do duyên hợp, không hiện hữu hay không không hiện hữu.
- Không thể có
cái gì “hiện hữu” mà lại là Chân Đế cả! Cái gì “hiện hữu” cũng đều có Nhân, cái
gì hiện hữu cũng do Duyên Hợp cả!
- Chân Đế và Tục
Đế trong Vi Diệu Pháp, sở dĩ được gọi như vậy, là vì mục đích muốn tách thế
giới làm hai: Một thế giới bản chất và một thế giới hiện tượng.
- Tại sao lại
tách ra?
- Là để cho con
người 2500 năm trước biết được cái thực tại bí mật bên trong, giúp con người dễ
thoát ra khỏi cái thế giới hiện tượng bên ngoài. Mới đây khoảng 100 năm, khoa
học mới biết đến cấu tạo nguyên tử, tức bản chất bên trong của vật chất. Hiện
tại khoa học còn chưa biết cấu tạo thực sự của Tâm. Ý tôi muốn nói sự phân tích
(vật chất và ý thức) của các thiền sư 2500 năm trước là cao siêu lắm rồi! Không
nên đòi hỏi gì thêm!
- Đức Phật rất
khéo léo trong khi giảng dạy và tranh luận (hi hi… khen thì cũng bằng thừa).
Ngài chỉ giúp giải quyết cái cần thiết trong thực tế đời người (như làm thế nào
để bớt khổ, hết khổ và không tái sanh). Ngài tránh không đề cập đến đấng sáng
tạo Brahma (vì nó không cần thiết để giải quyết các vấn đề thiết thực). Ngài
chủ trương không công nhận cũng không phủ nhận vấn đề Thượng đế hay các vấn đề
gọi là siêu hình không cần thiết!
- Và cũng như
thế, Vi Diệu Pháp chắc cũng không nhằm tạo ra một hệ thống lý luận để chứng
minh cái ranh giới của Chân Đế và Tục Đế là sự phân chia hoàn toàn đúng tuyệt
đối. Sở dĩ có sự xuất hiện của Vi Diệu Pháp với các khái niệm về Tâm, Vật hay
các khái niệm về Chân đế hay Tục đế, v.v...là nhằm một mục đích khác!
- Nếu hiểu được
PHƯƠNG PHÁP LUẬN của Đức Phật, ta sẽ thôi không phí thời gian đi tìm và tranh
luận sự phi lý, nghịch lý, thấy ở đâu đó trong Vi Diệu Pháp. Ta chỉ coi VDP như
cuốn từ điển của những khái niệm Phật Học, mà ta cần có, để tra cứu khi học
kinh. Và học kinh là để thực hành!
- Nếu đọc kinh
mà không cần đến Vi Diệu Pháp thì ta cứ bỏ nó đi.
---
Dear Kan Trần:
- Tôi còm do…
cảm hứng thôi! Cũng không chắc suy nghĩ lúc này của mình là đúng.
- Tôi rất cảm
phục những người học Phật với tinh thần tự do và đức tính tự tin, tức những
người không quỵ lụy quá mức trước các quan điểm truyền thống !
October 3 at 7:48am · Edited · Like · 3
Hạnh Trương: Tôi vừa làm một việc, việc đó là thiện
hay bất thiện, có làm tôi xa hay gần hơn mục tiêu của tôi không, tại sao tôi
lại làm như vậy, tôi có thể không làm nó trong tương lai được không, làm sao để
tôi có thể từ bỏ hoặc duy trì nó.
Trong khi tìm
câu trả lời cho những vấn đề đã nêu, thỉnh thoảng VDP có ích. Vậy cũng đủ để
biết ơn những người đã tạo nên nó. Còn hệ thống luận của nó thì quả thật có rất
nhiều vấn đề để có thể trở thành một học thuyết hoàn hảo.
Tâm vi diệu chứ
luận về tâm thì chưa chắc. Có lẽ do sự hiểu nhầm đối tượng của chữ vi diệu nên
người ta đã coi VDP như thánh điển, nhiều khi còn đặt trên cả tạng Kinh.
October 3 at 7:50am via mobile · Like · 5
Ba Nguyen: Phân chia chân đế - tục đế trong Pali:
Tục đế:
sammutti-sacca
Chân đế:
paramattha-sacca
Đế: sacca
October 3 at 8:19am · Edited · Like
Vo Trong Phi: Kan
Trần viết: "TH1: Tâm này không có bất kỳ nhân nào hết (vô vi). Như vậy,
Tâm này phải thuộc Niết Bàn vô vi". Suy luận của Kan Trần có thể dẫn đến
một hệ luận khác: "Cục đá không có bất kỳ nhân nào hết (tham, sân, si, vô
tham, vô sân, vô si). Như vậy, Cục đá phải thuộc Niết Bàn vô vi".
October 3 at 8:34am · Like
Vo Trong Phi: Comment trên của Kan Trần cần làm rõ thế
nào là "vô nhân", "hữu vi", "vô vi", "tâm
quả".
October 3 at 9:12am · Edited · Like · 1
Hạnh Trương: Dùng suy luận logic là dễ tiêu lắm, vì
nhiều cái suy ra thì hợp lý, nhưng thực tế thì không như vậy.
HT kể một ví dụ
cho quý vị, hồi học đại học, HT học thì ít mà suy luận thì nhiều, nên rất lười
lên lớp. Đến khi thi, ông giáo sư cho rớt 2 lần, tới lần thứ 3, sau khi chấm
bài, ông ấy mới gọi lên bảo "mày không đi học, nhưng mày làm được bài,
giờ còn câu này nữa, nếu mày làm được thì tao cho mày 5 điểm (điểm cao nhất
)". HT ngồi nghĩ mãi không ra, đề bài là ông ấy yêu cầu xây dựng một mạch
tích hợp. Ngồi mãi không ra, toát hết mồ hôi, thường thì HT "tạo ra"
mấy cái mạch tích hợp đó cực nhanh từ các phần tử tính toán cơ bản. Đành lên
nộp giấy trắng.
Ông Giáo Sư mới
gỡ kính xuống, nhìn mình và cười "Tao biết mày rồi, mày giỏi suy luận,
tổng hợp, nhưng đáng tiếc là trong trường hợp này không thể làm như vậy, vì cái
này tự nhiên nó có sẵn phần tử như vậy, và tao đã nói trên lớp, còn mày đi tổng
hợp, suy luận thì không thể ra được".
Cụ già ngụ ý là
nên đi học :) Bài học nên đi học trên lớp thì không học được, vì sau đó vẫn
lười. Còn bài học căn bản là "dựa vào suy luận, lý luận" có ngày toi
:)
October 3 at 9:59am · Like · 6
Vo Trong Phi: Ông giáo này phải xếp vào hàng "cao
lão tiền bối" :-)
October 3 at 10:13am · Like · 1
Dạ thưa anh,
Cái hệ luận mà
anh dẫn ra, rằng "cục đá phải thuộc Niết Bàn vô vi" rõ ràng là vô lý
phải không ạ? Nó chứng tỏ điều gì? Đơn giản là, VDP chứa đựng sự vô lý, bởi ví
dụ của anh cũng nằm trong phạm vi phân tích của VDP. :-)
October 3 at 10:53am · Like
- Vậy ai sẽ làm
rõ mấy thứ này? Còn ai giỏi hơn các luận sư A-tì-đàm trong việc làm rõ mấy khái
niệm này. Chúng ta chỉ cần mở sách ra đọc thôi, thưa anh! :-)
October 3 at 10:56am · Like
Vo Trong Phi: Phải nói chính xác là nằm trong suy luận
chủ quan của Kan Trần.
October 3 at 10:56am · Like · 1
Xin được dừng đề
tài này tại đây. Kính.
October 3 at 10:58am · Like · 3
Vo Trong Phi: Cám ơn Kan Trần đã chia sẻ các suy
luận/ lập luận.
October 3 at 11:04am · Edited · Like · 1
Hạnh Trương: Này, đừng nói xấu là VDP là đồ để cho
vui đấy, hehe.
October 3 at 11:05am · Like
Hạnh Trương: Qua 2 comment của đ/c TP thì thấy là ÔNG
NÓI GÀ, BÀ NÓI VỊT :)
October 3 at 11:12am · Like
Ba Nguyen: VDP: Tôi thấy nhiều ông thầy bói đang sờ
cùng một con voi. Ông nào nói cũng đúng.
October 3 at 11:16am · Like
Hạnh Trương: Sờ đã dại rồi, nói còn dại hơn, hehe. Để
con voi cùng câu hỏi lại đó, đi học Kinh thôi :)
October 3 at 11:21am · Like · 1
Thuận Pháp Dhammiko: Nãy giờ rảnh rỗi mới đọc lại các cmt của
Kan Trần ở trên mới thấy cách hiểu của Kan Trần về VDP rất nghiêm trọng, sẽ làm cho
người khác búi và hiểu lệch lạc về nó. Nếu bạn Kan Trần có hứng thú thì PM cho mình!
October 3 at 12:58pm · Like · 1
Hạnh Trương: Hai bác đóng cửa bảo nhau nhé. Có gì hay
thì thông báo kết quả, hihi
October 3 at 1:17pm · Like · 2
Bạn có thể viết
thẳng vào đây nếu bạn thích. Về phần tôi, tôi đã làm xong phần của mình. Xin
không bình luận gì thêm. Cảm ơn bạn. :-)
October 3 at 3:37pm · Like
Hiếu Nguyễn: Thực ra chúng ta đang bày tỏ quan điểm
riêng, chẳng có gì xấu, mọi người ngại ngùng làm gì. Nếu cứ động vào mà lại
ngại ngại, thì nhiều khi không bao giờ lật lại được vấn đề. Topic này vốn về
VDP nên thảo luận về VDP là không hề lạc đề, và có thể kéo dài bao nhiêu cũng
được.
October 3 at 7:33pm · Unlike · 4
Minh Quang: MQ luôn nghĩ rằng tranh luận cũng là
cách học hỏi, vì thực ra dù có là đúng đắn, đó mới chỉ là ''khái niệm'' hoặc lí
thuyết, còn có thực hành tới đâu là duyên mỗi người.
October 3 at 8:34pm · Like · 1
Thuận Pháp Dhammiko: TP xin cmt thêm:
- Pháp Chơn đế
(Paramatthasacca): pháp cùng tột, tuyệt đối.
- Pháp Tục đế
(Sammuttisacca): pháp chế định, thế tình, quy ước.
- Pháp hữu vi:
pháp bị chi phối bởi định luật vô thường, khổ, vô ngã,
- Pháp vô vi: pháp
không bị chi phối bởi vô thường, khổ, nhưng vô ngã.
Niết-bàn
(Nibbāna): đơn giản chỉ là pháp diệt phiền não, diệt khổ, thường hằng, vô ngã.
Vì vậy:
- Khổ Đế, Tập
Đế, Đạo Đế là hữu vi, vì còn vô thường, còn khổ.
- Diệt Đế (Niết
Bàn) là vô vi vì thường hằng, diệt khổ.
Đạo đế là hữu vi
nhưng đức Phật nói rằng chúng sẽ cho quả cùng tột là Niết-bàn, pháp Diệt khổ,
nó không phạm quy luật tự nhiên gì cả, nhân duyên nó là như vậy, và nó là pháp
xuất thế gian.
Điều cần bàn là
trên thế gian này có cái gì không phải là hữu vi không thôi :)
October 3 at 11:08pm · Like · 1
Thuận Pháp Dhammiko: Còn kiểu phân tích như sau của Kan Trần
là kiểu phân tích của học trò không thuộc bài, kiểu phân tích "con kiến mà
leo cành đa":
1) “Nhãn Thức
câu hữu với Xả là một Bất thiện dị thục vô nhân tâm (Tâm quả - không nhân - bất
thiện )”.
- Phân tích: Vậy
nếu không có Nhãn Thức hoặc không có Xả, hoặc Nhãn Thức không câu hữu với Xả,
thì không có Bất thiện dị thục vô nhân tâm này. (VD người mù mắt bẩm sinh thì
không có nhãn thức). Như vậy Tâm này có lúc tồn tại có lúc không, mà một pháp
Chân đế thì không thể có tính chất như vậy. Suy ra Tâm này không phải là một
pháp Chân đế. Vô lý. Các Tâm khác cũng tương tự.
2) Tâm này là
“vô nhân”. Theo chú giải thì “vô nhân” ở đây nghĩa là “không có 1 trong số 6
nhân: tham – sân – si – không tham – không sân – không si”.
- Phân tích: Vậy
có 2 trường hợp:
TH1: Tâm này
không có bất kỳ nhân nào hết (vô vi). Như vậy, Tâm này phải thuộc Niết Bàn vô
vi, trong khi đó VDP xếp Tâm vào nhóm hữu vi. Vô lý.
TH2: Tâm này có
một hay nhiều nhân khác với 6 nhân trên. Vì tâm này có nhân nên do duyên sinh.
Vì do duyên sinh nên Tâm này không thể là pháp Chân đế, vì pháp Chân đế không
do duyên sinh. Trong khi đó, VDP coi Tâm là một Chân đế. Vô lý.
3) Tâm này là
“tâm quả”.
- Phân tích: Nếu
nó là tâm quả thì nó phải có nhân. Theo TH2 vừa nêu trên cũng dẫn tới vô lý.
Tóm lại, từ ba phân
tích trên, dẫn tới khái niệm “bất thiện dị thục vô nhân tâm” là hoàn toàn vô
lý.
=> Pháp đời
cũng cần phải cắp sách vở 20 năm đến trường mà cũng chưa thông vào đâu huống hồ là
pháp Phật :)
October 3 at 11:27pm · Like
Hạnh Trương: TP sao lại nặng nề thế.
Giờ có người hỏi
nè, TP tìm được câu trả lời trong VDP hoặc suy luận dựa trên VDP thì trả lời
giùm nhé :
1. Giữa hai sát
na tâm, có tâm nào tồn tại không?
2. Sati và Sanna
có quan hệ với nhau như thế nào? (đừng nói là cùng có chữ Sa ở đầu nhé, hehe)
3. Trong một tâm
lộ, các tâm tương tác với nhau ra sao?
October 4 at 6:35am · Like · 1
Ba Nguyen @Thuận Pháp Dhammiko: Bạn nên bỏ qua các
comments của Kan Tran. Trả lời như Võ Trọng Phi là hay nhất.
October 4 at 9:11am · Like
Hiếu Nguyễn: Làm sao bỏ đi được ạ, 2 người đang thảo
luân, tự nhiên "làm ngơ" đi thì hơi ...dzô dziên.
Mọi người ráng
thảo luận trong hòa bình, làm việc với "ý kiến" của người kia thôi,
xin đừng bàn về các yếu tố khác.
October 4 at 10:00am · Like
Ba Nguyen: @Hiếu Nguyễn: Bỏ đi thì hơi dzô dziên,
dây dưa chắc gì đã khá hơn và đã không dzô dziên khi "bộp" nhau chí
chóe... Tôi thấy TP thảo luận nhiều lần, bị "bộp" lại, TP tự xóa
comment,... Nếu không có "Kiến Hòa Đồng Giải" trong Lục Hòa, tôi thấy
tự ngưng là tốt nhất. Tuy nhiên đây là ý kiến riêng.
October 4 at 10:12am · Edited · Like
Hiếu Nguyễn: Vâng, một khi mình đã tham gia thảo luận
thì mình phải sẵn sàng tư tưởng là ý kiến của mình sẽ bị "bộp".
Thực ra cái ý
kiến đó nó cũng đâu có gì là ghê gớm đâu ạ, nó cũng chẳng phải là mình. Nó bị
"bộp" mấy cái thì cũng có sao đâu ạ, hì hì!
Chúng ta cũng
cần phải xem lại, mục đích của thảo luận là gì?
(1) Để chứng
minh tôi (thầy tôi) đúng, anh (thầy anh) sai?
(2) Hay để kiểm
nghiệm lại kiến thức cá nhân, và học hỏi từ ý kiến đa chiều của nhiều nguồn
khác?
Nếu đã xác định
là (2), thì ngại ngùng gì nữa mà không nói ra ý kiến của mình, cái hiểu của
mình ạ. Cứ học theo kiểu cũ thì thành ra một thế hệ yếu ớt thôi. Hiểu gì nói
ra, bị công kích, thể là đóng cổng thành lại.
Ngày xưa ngoại
đạo chẳng đến tranh luận với Sa Môn Gotama hoài, trước khi quy y Tam Bảo đó sao?
October 4 at 10:17am · Like · 5
Hạnh Trương: Bỏ lời lấy ý đi Ba Nguyen ơi, khổ quá,
đời đã khổ ngang khổ dọc, chui vào đây mà còn khổ thêm hả, hihi.
October 4 at 10:19am · Like · 1
Ba Nguyen: @Hiếu Nguyễn: Vậy nếu đã xác định là (1)
thì sao? :)
October 4 at 10:19am · Like
Ba Nguyen: @Hạnh Trương: Đang thảo luận nên bỏ hay
nên dây dưa, không phải chấp chữ nghĩa, mà thấy dây dưa không chắc đã
"đẹp".
October 4 at 10:22am · Like
Hạnh Trương: Có một hôm, anh bạn mình mời mình đi
uống cafe với hai Việt kiều, chắc là mối lái gì đó vụ ngân hàng. Anh bạn giới
thiệu mình "ông này thiền thiền gì đấy...", có vẻ gớm lắm.
Thấy anh bạn có
vẻ khoái thiền, nên ông khách quay ra bụp mình luôn, ông ấy hỏi một câu rất
kinh, với vẻ mặt rất nghiêm trọng "thế khi thiền thì anh nghĩ gì".
Chắc mầm hỏi xong câu này thì anh bạn mình khỏi mơ mộng về thiền.
Mình trả lời:
TIỀN!
Xong vụ thiền ở
đó, hehe
October 4 at 10:23am · Like · 2
Hiếu Nguyễn: Nếu chọn (1) thì thảo luận chi nữa ạ,
tôi luôn luôn đúng mà :-)
October 4 at 10:23am · Like · 1
Ba Nguyen: @Hiếu Nguyễn: Chính xác! Nếu gặp đối
tượng như vậy tôi sẽ bỏ đi (cãi chỉ mệt người thêm).
October 4 at 10:25am · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Bây giờ TP phân tích lại cái tâm vô nhân
mà bạn KT nhắc tới, lấy ví dụ Nhĩ thức vô nhân thọ xả (tâm nghe âm thanh) cho
dễ hình dung:
- Tâm (citta) là
cái nhận biết đối tượng. Chúng ta muốn biết cái gì thì phải có Tâm, có đối
tượng của tâm và có sự tiếp xúc giữa chúng.(Người chết có mắt, có cảnh sắc
nhưng vì không có tâm nên người chết không thấy gì!)
- Nhân có trong
tâm, (gọi là tính chất căn bản của tâm cho dễ hiểu) đó là 6 nhân Tham
(Lobhamūla), nhân Sân (Dosamūla), nhân Si (Mohamūla), nhân Vô tham
(Alobhamūla), nhân Vô sân (Adosamūla), và nhân Vô si (Amohamūla).
Ví dụ khi một
nhóm người đang ngồi cùng với nhau, tự nhiên có viên pháo (hay cái gì đó) nổ
đùng to lên. Trước tiên ai cũng nghe được tiếng nổ đó cả (không tính có người
điết nặng). Vậy cái gì nghe được? Đó chính là tâm nghe gọi là Nhĩ thức. Cái tâm
nghe này nó tự động sinh lên khi có tai tốt và có tiếng động, tức những tâm này
nó ngủ ngầm sẵn nên gọi là tâm quả, chúng ta không phải đợi tạo ra nó xong mới
nghe được tiếng động. Và mọi người ở đó ai cũng nghe 1 tiếng nổ giống hệt nhau,
không đợi phải mong muốn nó xảy ra (có hơi hướng Tham), hay đừng mong nó xảy ra
(có hơi hướng Sân) là nó xảy ra, nên đây gọi là tâm không có 6 nhân trên. Tóm
lại gọi nó là tâm quả và vô nhân.
Còn tiếp theo
sau khi nghe tiếng nổ rồi, người thì sợ hải khởi lên, giật mình; người thì
thích thú vì được nghe tiếng pháo nổ sau bao năm bị cấm đốt. Lúc này các tâm
nhận biết khác nhau có kèm sự lo sầu, tham đắm hay thản nhiên thì là các tâm có
nhân rồi.
Những pháp này
có thật, ai nghe tự kinh nghiệm lấy gọi là pháp Chơn Đế. Nghe xong rồi đi kể
lại cho người khác nghe, cái nghe kể về tiếng nổ đó ra sao thì đã là chế định,
ngôn từ nên gọi là Tục đế.
Đức Phật chỉ nói
như vậy thôi, cũng đơn giản nhưng cũng cao siêu nếu những người không chịu chấp
nhận :)
October 4 at 10:27am · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Còn câu hỏi của anh Hạnh Trương thì
ngoài phạm vi của 1 cmt :)
October 4 at 10:36am · Like
Hạnh Trương: Ví dụ của TP có vấn đề nặng nha, thế HT
hỏi TP, nếu một người mắt đang rõ, do tham nên đọc, nhìn bậy quá nhiều, mắt nó
mờ đi, tới lúc thấy cùng một cảnh, có người thấy rõ, có người thấy mờ, hỏi TP
là cái nhãn thức đó nó cũng vô nhân? hihi.
October 4 at 1:21pm · Like
Hạnh Trương: TP nghiên cứu câu hỏi về sati và sanna
đi, hihi. Thực ra đã có lần nói với TP rồi, VDP thiếu hẳn một khái niệm nền
tảng, nên nó không là một hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh .
October 4 at 1:22pm · Like · 1
Thuận Pháp Dhammiko: Đó là quan điểm của anh HT thôi, quan
điểm của những người học VDP thì khác. Có thể nói họ đồng quan điểm của Mrs.
Rhys Davids:
"Abhidhamma
đề cập đến: tất cả những gì trong ta; tất cả những gì ngoài ta; và những gì ta
khao khát đạt thành".
Cái ví dụ anh
đưa ra là mắt mờ, mắt rõ đó cũng là nhãn thức nhưng nhãn thức này nó đã qua bao
nhiêu tâm khác nữa rồi.Tức là nhãn thức 1, đến vô số tâm tạo tác khác rồi đến
nhãn thức 2, 3,...khác nữa.
Ví dụ khác của
tâm vô nhân thọ khổ là Thân thức thọ khổ vô nhân: Như anh dùng cái kim thật
nhọn, chích mạnh vào da thịt. Khi anh chích vào thì cảm thấy cảm giác đau đớn
khó chịu nơi da xảy ra liền, không đợi đến lúc kiếu như nói "khoan để tôi
vui lên đã đau" hay "khoan để tôi giận lên đã đau". Đó là cái
biết của thân thức là tâm quả vô nhân thọ khổ, nó xảy ra tức thời, không nhuốm
màu tham, sân, si và kèm theo cảm thọ là đau đớn (khổ).
Cái môn VDP này
mà lý luận quanh co nữa thì rất rắc rối, mất thời gian. Hèn gì đức Phật phải
lên trên cõi trời giảng, không giảng ở cõi người, có lẽ vì con người thì hay lý
lẽ nên Ngài sẽ giảng không biết bao giờ cho xong trong 3 tháng hạ, Ngài chỉ
giảng lại cho Ngài Xá-Lợi-Phất thôi cho khỏe. 2600 năm trôi qua rồi mà chúng ta
vẫn còn nghi ngờ, không chịu áp dụng :)
Còn cái vụ Sati
và Saññā này chắc phải nhờ quý Sư, quý Cô gỡ giúp!
October 4 at 1:57pm · Like
Hạnh Trương: TP nếu có ý trao đổi thì nên tiếp tục,
còn nếu cứ có ý "hèn gì ..." thì khó lắm :)
Tóm lại là có
định trao đổi tới cùng về đề tài này không nào :), nếu có HT sẽ sẵn lòng. Nếu
cần HT sẽ cùng nghiên cứu VDP với TP để tiện trao đổi .
October 4 at 2:11pm · Like
Hai Long: Hèn gì đức Phật phải lên trên cõi trời
giảng, không giảng ở cõi người <=== hihi, vậy là VDP không phải dùng để cho
con người tu tập rồi anh TP ơi :) Em chưa hiểu nhiều về VDP lắm, nhưng có cảm
tưởng như nó là một cái mô hình, hoặc là một bộ mã hóa tâm mình, người ta xây
dựng mô hình tâm của con người với các thuộc tính, thông số đi theo. Tất nhiên
mô hình thì không mô tả được hết các thông số, thuộc tính thật của vật rồi!
October 4 at 2:11pm · Like · 1
Hạnh Trương: Coi như gặp phải "ngoại đạo"
khó chịu HT đi, thì cũng nói làm sao cho nó được thuyết phục, chứ cứ dẫn chuyện
trên trời là dân gian bó tay, hehe.
October 4 at 2:12pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Mục đích là xúi giục mọi người tham gia
học VDP cùng cho dzui đó mà :)
October 4 at 2:12pm · Like · 2
Hạnh Trương vậy
cùng học đi, hehe, câu hỏi đầu tiên nè
Tại sao sắc pháp
lại tồn tại trong 17 sát na tâm mà các tâm khác chỉ tồn tại trong 1 sát na?
October 4 at 2:14pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Cái này thì khó xử thật đây :) Thôi lấy
ví dụ so sánh được không?
October 4 at 2:16pm · Like
Pāli Việt: Ha ha, ngày xưa lúc còn làm tiểu đã bị
Cô Giáo mắng về cái tội hay hỏi linh tinh: "Chú đừng có tìm cách chọc giận
Tôi, cái đó là chân lý. Không được thắc mắc."
October 4 at 2:17pm · Unlike · 4
Thuận Pháp Dhammiko: Lấy ví dụ vật lý hiện đại phản ánh lời
của VDP:
Một nhà khoa học
vật lý quan sát sự phân rã của hạt nhân nguyên tử: Sự phân rã này xảy ra rất
nhanh, có thể tạm gọi là chỉ trong thời gian 17 sát-na (thời gian rất ngắn).
Cùng với 17 sát-na này thì tâm quan sát của nhà khoa học đã sinh diệt 17 lần
rồi: 3 sát-na tâm Bhavaṅga, 1 sát-na ngũ môn hướng tâm, 1 sát-na nhãn thức, 1
sát-na tâm tiếp nhận, 1 sát-na tâm suy-đạt, 7 sát-na tâm tác hành, 2 sát-na tâm
đồng sở duyên, 1 bhavaṅga. Như vậy 1 sự sanh diệt của sắc chất thì tâm đã sinh
diệt 17 lần rồi để ghi nhận nó, rất nhanh.
Hoặc là tâm có
Saññā - tưởng: nó khởi lên thì có thể qua tới Pháp, tới Mỹ (nếu ai đã từng tới
đó) rất nhanh. Có thể thấy mình đang đi dạo dưới tháp Eiffel. Chắc nó còn nhanh
hơn vận tốc ánh sáng mấy chục lần :)
Những VD này TP
phịa ra đó!
October 4 at 3:20pm · Edited · Like
Hai Long: Cái này giống như lấy mẫu của 1 tín hiệu
nào đó nhỉ :)
October 4 at 2:34pm · Unlike · 1
Hạnh Trương: Ây ây, ai lại thế, nói thế hóa ra sắc
pháp tồn tại độc lập sao, hihi. Sắc pháp tồn tại 17 sát na vì tâm cần 17 sát na
để xử lý nó.
Nếu chỉ cần 14
thì sắc pháp cũng chỉ tồn tại 14 sát na thôi.
Vấn đề là trong
thời gian đó, ( cần để xử lý ) thì sắc pháp nó tồn tại ở đâu
October 4 at 2:36pm · Like
Hạnh Trương: Bắt đầu học VDP qua môn đặc biệt là lộ
trình tâm nha TP, hihi, "dám chơi" tới cùng không?
October 4 at 2:37pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: 17 sát na là lớn nhất, có khi nhỏ hơn
17.
Sắc pháp thì tồn
tại độc lập. Nó chỉ là duyên để tâm chụp bắt gọi là Cảnh duyên thôi. Sắc pháp
không can thiệp gì trong quy trình của tâm về độ nhanh nhậy :)
October 4 at 2:40pm · Like
Ba Nguyen: @Hạnh Trương: "Tại sao sắc pháp lại
tồn tại trong 17 sát na tâm mà các tâm khác chỉ tồn tại trong 1 sát na?"
-- Người ta thích con số 49 nên cho sắc pháp trụ lâu hơn danh pháp 49 lần, cộng
hai sát na tiểu sanh và diệt, tổng cộng 51 sát na tiểu, chia ba ra 17. (1 sát
na bằng 3 sát na tiểu)
October 4 at 2:54pm · Like
Hạnh Trương: hiểu, may mà không thích con số 23, hehe
October 4 at 2:54pm · Like · 1
Thuận Pháp Dhammiko: Những cái định luật về tâm này khó hiểu
thiệt, tạm chấp nhận cho khỏe. Như kiểu giải 1 bài toán khó thì tạm áp dụng các
định lý mà làm, đừng cố chứng minh các định lý xong mới giải bài toán thì hết
giờ mất :)
Cũng như các định
lý về tâm, tạm hiểu để áp dụng mà giải quyết bài toán sinh tử của đời người.
Cái lưỡi hái thần chết luôn luôn kề sát cổ :)
October 4 at 3:03pm · Like
Hạnh Trương: Không cần phải tạm đâu TP ơi, đây là chỗ
quả thực VDP rất vi diệu, đó là xác định sắc pháp không tồn tại độc lập ngoài
tâm. Nó tồn tại đủ lâu để tâm xử lý nó, nếu không sao lại có sự khác biệt giữa
17 và 14 ở đây.
Ngoài ra, cái
gọi là sắc pháp không phải là cái mà ta nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm
thấy, sờ thấy.
Chơi tới cùng
đi, sợ gì, hehe
October 4 at 3:21pm · Like · 1
Phan Minh Nguyet: Oh mình tạo topic này hỏi, chưa nhận
được câu trả lời thoả đáng mà lại "câu" được nhiều comment ghê :-)
Mặc dù tìm hiểu
VDP chưa nhiều, cũng xin tham gia mấy ý:
- Sanna có chức
năng nhớ lại còn sati có chức năng ghi nhớ ngay trong hiện tại. Sanna phát
triển trong Bát Chánh Đạo là Chánh kiến, Sati trở thành Chánh niệm
- Tại sao sắc
pháp tồn tại 14 hay 17 sát na tâm: cái này chịu:-) coi như Đức Phật hay vị nào
đó nhìn thấy sự thật nó là như thế, ko suy luận logic được
- Vô nhân: từ
này rất dễ gây hiểu lầm là ko có nguyên nhân nên mỗi lần nhắc đến từ này lại
phải giải thích rất dài dòng. Hy vọng có dịch giả nào tìm được từ dễ hiểu hơn
October 6 at 9:43am · Edited · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Sanna (Saññā - Tưởng) phát triển trong
Bát Chánh Đạo là Chánh kiến??? Mấy ông võ sỹ đạo Nhật Bản "tưởng"
kinh lắm, họ tưởng kẻ thù như thân cây chuối, vút 1 nhát là đứt lìa. Hay mấy
tay chơi trò "yểm bùa" tưởng ai đó ra hình nộm và chích đốt cho bỏ
ghét. Cái tưởng như vậy không thể gọi là Chánh Kiến được. Tưởng (Sañña) và Niệm
(Sati) rất khác nhau!
Chị Phan Minh
Nguyet bị điểm huyệt rồi, chị cố giải huyệt đi nhé :)
October 5 at 12:25pm · Like · 1
Phan Minh Nguyet: thôi chết rồi bị tẩu hoả rồi:-) vẫn đáng
nghĩ đến bài kinh An trú tầm tâm sở vitaka mới trở thành chánh tư duy chứ. Đoạn
"tưởng" này thì chịu rồi:-)
October 14 at 10:39am · Edited · Like
Hoa Nguyen: Thay "vô nhân" bằng "bất
nhân" cũng không được, và nếu bằng "vô duyên" cũng khó nghe.
Viết đủ thì hơi bị dài : vô nhân duyên tạo tác.
October 5 at 9:57pm · Like
Hạnh Trương: Có phải ý Phan Minh Nguyet là các pháp
hữu vi đều do nhân mà sanh (đều có nhân), tâm và tâm sở cũng là pháp hữu vi, do
đó dùng từ tâm vô nhân có vẻ hơi nghịch phải không ?
October 5 at 10:18pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Anh Hạnh Trương xem VDP giải thích NIỆM
(SATI) và TƯỞNG (SAÑÑĀ), thấy có lý:
Tưởng là sự nhớ
lại do 1 dấu hiệu (nimitta) đã từng gặp, sự nhớ lại này có khi đúng, có khi
sai. Còn sự nhớ của Niệm là sự nhớ chính xác vì dấu hiệu được ghi nhận kỹ lưỡng
rõ ràng.
Ví dụ như người
thợ mộc, thấy 1 miếng gỗ, ông ta nghĩ rằng sẽ dùng nó làm 1 cái mặt bàn; vài
hôm sau, ông ta thấy 1 miếng gỗ khác và nghĩ rằng đấy chính là miếng gỗ mà ta
định dùng làm mặt bàn. Thật ra ông ta nhầm vì miếng gỗ thứ 2 đó rất giống miếng
gỗ đầu. Sự nhớ của Tưởng cũng thế, có thể đúng có thể sai.
Nếu như khi thấy
miếng gỗ, người thợ mộc ấy dùng mực để đánh dấu, để làm ký hiệu, thì khi gặp
lại thời gian lâu sau đó, dứt khoát ông ta sẽ nhận ra ngay mà không thể nào sai
lệch. Đây là ví cho sự nhớ của Niệm.
Do bởi sự nhớ
lại của Tưởng có đúng có sai nên Tưởng thuộc nhóm Tâm sở Biến hành. Trong khi
đó sự nhớ của Niệm là chính xác, có sự phân biệt đúng sai, tốt xấu nên Niệm
thuộc về nhóm Tâm sở Tịnh quang.
Ngoài ra, sự sai
biệt giữa Niệm, Tưởng, và Trạo cử tựa như chữ viết trên đá, chữ viết trên cát,
và chữ viết trên nước. Chữ viết trên đá ví như sự nhớ của Niệm, Chữ viết trên
đất giống như sự nhớ lại của Tưởng, còn chữ viết trên nước ví như Trạo cử.
October 5 at 10:52pm · Like · 3
Hạnh Trương: Theo HT thấy thì chưa chính xác lắm, hai
function đó không hẳn như vậy
October 5 at 10:57pm via mobile · Like
Pāli Việt: Thuận Pháp Dhammiko nên xem định nghĩ 2
sở hữu Tưởng và Niệm ở Siêu Lý Học (có ở CD Budsas).
October 5 at 11:01pm · Like
Thuận Pháp Dhammiko: Con có đọc rồi nhưng thấy rất mập mờ
giữa Niệm và Tưởng; giữa Niệm, Chánh niệm và Tưởng.
October 5 at 11:09pm · Like
Pāli Việt: I. Ðịnh
nghĩa: Sở hữu Niệm là trạng thái tâm ghi nhớ biết mình, biết những hành vi và
cử động của thân và tâm.
- Bốn ý nghĩa
của sở hữu Niệm
1- Chơn tướng:
Là cách không sơ ý
2- Phận sự: Là
làm cho không quên, hay là ghi nhớ.
3- Sự thành tựu:
Là cách trao đổi tâm hằng khắn khít với cảnh.
4- Nhân cần
thiết: Là nhớ vững chắc.
Thí dụ: Như
người lính gác cổng biết rõ kẻ ra người vào.
October 5 at 11:10pm · Like · 2
Pāli Việt: I. Ðịnh
nghĩa: Sở hữu Tưởng là cách trạng lại, nhớ lại, hồi tưởng lại, nhận thức lại
những cảnh, vật, hay sự việc đã gặp đã biết.
- Bốn ý nghĩa
của Tưởng:
1- Chơn tướng cách
nhớ.
2- Phận sự nhớ
lại việc đã qua.
3- Sự thành tựu
nhớ đặng sự vật đã biết.
4- Nhân cần
thiết phải có cảnh hiện bày.
October 5 at 11:11pm · Like · 2
Pāli Việt: Theo từ điển Pali, sati còn có nghĩa là
memory, nhưng Sư chưa gặp ngữ cảnh này. Như vậy phải chấp nhận sati có ít nhất
là 2 nghĩa. Nếu lấy sati = memory thì chi pháp của nó không thể là sở hữu NIỆM
(sati) được.
October 5 at 11:14pm · Unlike · 2
Thuận Pháp Dhammiko: Trong thiền Chánh niệm:
- Người có hành
thiền nói: tâm tôi có ghi nhớ biết mình, biết những hành vi và cử động của thân
và tâm.
- Người không
bao giờ hành thiền, báng bổ thiền cũng nói: tâm tôi cũng có ghi nhớ biết mình,
biết những hành vi và cử động của thân và tâm.
- Con chó nằm
bên cửa giữ nhà nó cũng làm chức năng gác cổng, cũng biết được người vào ra,
người quen thì mừng vẫy đuôi người lạ thì gầm gừ, tức nó cũng có trí nhớ và có
ghi nhận rõ.
Vậy trong 3
trường hợp này làm sao biết ai đang hành thiền thực sự?
October 5 at 11:28pm · Edited · Like · 1
Hạnh Trương: Tưởng đây :)
__
7) Này các
Tỷ-kheo, thế nào gọi là tưởng? Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng. Nhận
rõ gì? Nhận rõ màu xanh, nhận rõ màu vàng, nhận rõ màu đỏ, nhận rõ màu trắng.
Nhận rõ, này các Tỷ-kheo, nên gọi là tưởng.
___
VII. Ðáng Ðược
Ăn (Tạp 2, Ðại 2,11) (S.iii,86)
October 6 at
12:50pm · Like · 1
Hạnh Trương: “kiñca, bhikkhave, saññaṃ vadetha? sañjānātīti kho, bhikkhave, tasmā ‘saññā’ti
vuccati. kiñca sañjānāti? nīlampi sañjānāti, pītakampi sañjānāti, lohitakampi
sañjānāti, odātampi sañjānāti. sañjānātīti kho, bhikkhave, tasmā ‘saññā’ti
vuccati.
October 6 at
12:55pm · Like
Hạnh Trương Tìm
trong VDP có lẽ khó, tìm trong đầu dễ hơn, hihi
October 6 at 12:56pm · Like
Hạnh Trương
Thuận Pháp Dhammiko hỏi :
"Trong
thiền Chánh niệm:
- Người có hành
thiền nói: tâm tôi có ghi nhớ biết mình, biết những hành vi và cử động của thân
và tâm.
- Người không
bao giờ hành thiền, báng bổ thiền cũng nói: tâm tôi cũng có ghi nhớ biết mình,
biết những hành vi và cử động của thân và tâm.
- Con chó nằm
bên cửa giữ nhà nó cũng làm chức năng gác cổng, cũng biết được người vào ra,
người quen thì mừng vẫy đuôi người lạ thì gầm gừ, tức nó cũng có trí nhớ và có
ghi nhận rõ.
Vậy trong 3
trường hợp này làm sao biết ai đang hành thiền thực sự?"
Chẳng hơi đâu mà
quan tâm ai đang hành thiền thực sự!
hihi.
October 6 at 12:58pm · Like · 1
Pāli Việt: Tưởng cũng là một thuật ngữ. Saññā,
sañjānāti (viết theo sandhi) cũng còn được viết là saṃjānāti và nên dịch như
thế nào? = tự mình biết (vì mình đã biết rồi, cái biết dựa trên cái đã biết).
Cái này nhận ra nhờ kinh nghiệm chiến trường, ở những ngữ cảnh bình thường, bỏ
chữ "tưởng" hoặc "tưởng tri" vào câu dịch tiếng Việt thì ý
không đạt, đọc không suông.
Viết chưa xong
thì thấy câu Pali của Hạnh Trương post lên. Tai họa lại tới nữa rồi. Tiếp đầu
ngữ saṃ có thể có 2 ý nghĩa: tự thân và hoàn toàn. Lại khác quan điểm với Thầy
của người ta nữa rồi. Lạy Trời lạy Phật lần này đừng bị thiên hạ chửi.
October 6 at 2:17pm · Edited · Unlike · 4
Hạnh Trương: Con không biết cái saṃ đó có hàm ý gì,
nhưng con cảm nhận thấy ở đây là tưởng có vai trò lấy cái có sẵn điền vào cái
chưa đủ để từ đó xây dựng nên đối tượng của sự nhận biết.
Ví dụ như thế
này :
Có x thông tin
đập vào mắt. Tưởng nó sẽ căn cứ vào x thông tin đó , truy cập vào ký ức, nó so
sánh x thông tin nhận được với tập hợp các pháp (đối tượng) tồn tại trong ký
ức. Nếu tìm thấy thì nó lôi ra. ( thế nào là thấy thì tùy người, tùy lúc ).
Do thông tin mà
tưởng trả ra ( ở đây hiểu tưởng là sự nhận biết), được lấy từ quá khứ, mặc dù
duyên cho nó là hiện tại, nên người ta mới chê tưởng :).
Tại sao đức Phật
lại lấy định nghĩa về màu, vì đây là ví dụ nổi bật nhất về tưởng. Lý do là
trong tự nhiên không tồn tại khái niệm về màu sắc. Màu sắc là khái niệm thuần
túy chủ quan thuộc về chủ thể quán sát. Tùy thuộc cách tưởng nó trộn màu mà
người ta thấy các màu khác nhau.
( viết tới đây
mới thấy kinh Phật quá gớm, hihi).
( cũng tưởng vậy
mà thôi :)
October 6 at 1:12pm · Like · 1
Pāli Việt: Ai da, đừng nói là đức Phật không có
trào phúng! (Không biết dùng từ trào phúng có chuẩn không nữa? Tiếu lâm thì
không được rồi). Ở đây câu Pali “kiñca, bhikkhave, saññaṃ vadetha?" có thể
dịch là: "Và này các tỳ khưu, các ông nói gì về saññā?"
"Và này các
tỳ khưu, các ông nói saññā là gì?" (Chưa xem Chú Giải nên không biết người
xưa giải thích theo lối nào?)
NHƯ VẬY LÀ CÁC
VỊ TỲ KHƯU THỜI XƯA CŨNG CÓ BÀN LUẬN VỀ TƯỞNG, QUÁ KHỨ ĐƯỢC TÁI DIỄN.
October 6 at 1:17pm · Like
Hạnh Trương: Một người có tưởng tốt, họ có nhiều khả
năng lạ, ví dụ như rất nhanh, nói cái hiểu liền, nghe 3 chữ đã biết cả câu. Đó
có thể là một ý nghĩa nữa của prefix saṃ ? nghĩa là liên kết?
Cái biết được
thực hiện nhờ sự liên kết, móc nối các thông tin nhiều loại nên được gọi là
Tưởng ? ( có cả từ liên tưởng )
October 6 at 1:17pm · Like
Hạnh Trương: Cung cấp cho Sư luôn chú giải , hihi
nīlampi
sañjānātīti nīlapupphe vā vatthe vā parikammaṃ katvā upacāraṃ vā appanaṃ vā
pāpento sañjānāti. ayañhi saññā nāma parikammasaññāpi upacārasaññāpi
appanāsaññāpi vaṭṭati, nīlaṃ nīlanti uppajjanasaññāpi vaṭṭatiyeva. pītakādīsupi
eseva nayo. idhāpi bhagavā sañjānanalakkhaṇāya saññāya paccattalakkhaṇameva
bhājetvā dassesi.
October 6 at 1:22pm · Like · 1
Pāli Việt: Hiện tượng nhận biết 3 chữ gọi là TƯỞNG thì đồng ỳ, riêng
cái trạng thái "nghe chưa hết câu mà đã biết cả câu" không biết có
phải là TƯỞNG không nữa? Phải ghi thêm chút nữa là TƯỞNG theo định nghĩa của
VDP.
October 6 at 2:16pm · Edited · Like · 2
Pāli Việt: Câu Pali mà Hạnh Trương cung cấp ngay ở
phía trên sử dụng toàn thuật ngữ của VDP. Trong khi đó Sc. Chua Nhu Phap cho
biết đã đọc 1 cuốn sách do 1 Vị Trưởng Lão ở Thái Lan chỉ trích trình độ VDP
của Chú Giải Sư Buddhaghosa. Khó nuốt trôi à nghen.
October 6 at 5:49pm · Like
Hoàng Lan: Đức Phật dạy Tứ Diệu Đế, tức Bốn Sự Thật
Vi Diệu thì Hoàng Lan thấy dễ hiểu: Khổ đế, Tập đế, Diệt đế, Đạo đế. Hoàng Lan
hiểu đế là sự thật. Còn bên VDP nói Chân đế, Tục đế. Đế là Sự thật, chân đế là
thật thật? Còn tục đế thì ko là sự thật? Vậy Tứ Diệu Đế là thuộc chân đế hay
tục đế? Mọi cái lấy Kinh làm gốc, lấy lời Phật dạy làm chỗ nương tựa, vậy trong
tạng kinh có chỗ nào đề cập đến 2 khái niệm Chân đế, Tục đế không. Chỗ này là
một vài thắc mắc sơ khởi của Hoàng Lan, con muốn thỉnh Sư cùng quý vị biết VDP
tùy hỷ cho con hỏi về vấn đề này ạ. _()_
3:04pm Oct 31
Thuận Pháp Dhammiko: Hoàng Lan, có thể hiểu như sau (Dài dòng
thêm dù Đề tài đã khép lại rồi):
Tất cả lời dạy
của đức Phật về Tứ Diệu Đế, Tứ Niệm Xứ, Ngũ Căn, Ngũ Lực, Thất Giác Chi,...được
ghi lại trong kinh điển gọi là Tam Tạng bằng các thứ tiếng như Pāli, Miến,
Thái, Hán, Việt, Anh,...đó đều gọi là Tục Đế hết. Trong Kinh đức Phật có nói là
Giáo Pháp chỉ là phương tiện để cứu độ giải thoát khổ, là chiếc bè để qua sông,
là ngón tay chỉ trăng để thấy mặt trăng. Tức những lời dạy đó có hiện diện thực
(ĐẾ) vì được ghi lại trên giấy, được khắc trên đá,...và nó chỉ phản ánh cái
thực tại khác nên gọi là thực tại quy ước, ngôn ngữ hay chế định, vì lẽ đó nên
gọi là TỤC ĐẾ (SAMMUTTISACCA): là một sự thật chế định để mô tả một sự thật khác.
Cái SỰ THẬT KHÁC này mới quan trọng, là điều đức Phật muốn mô tả gọi là SỰ THẬT
CÙNG TỘT, SỰ THẬT BẤT BIẾN hay CHƠN ĐẾ (PARAMATTHASACCA).
Tục đế mặc dù là
sự thật có tồn tại đó nhưng bị biến đổi tùy hoàn cảnh, quốc độ, vùng miền, cách
diễn đạt,... Ví dụ như đức Phật nói trong kinh Pāli là Dukkhavedanā, người Việt
dịch là Thọ Khổ, người Anh gọi là Unpleasant feelings. Các từ như
"Dukkhavedanā", "Thọ Khổ", "Unpleasant feelings"
gọi là Tục Đế dùng để mô tả, phản ánh một cảm giác như cảm giác đau nhức nơi cơ
thể khi bị gai nhọn đâm chích vào da. Cái cảm giác đau nhức nhối đó mới gọi là
Chân Đế vì nó không bị đổi khác đi dù người kinh nghiệm đó là người Ấn, người
Việt hay người Anh,... Cái từ Pāli "Dukkhavedanā" qua người Việt bị
biến thành "Thọ Khổ", qua người Anh bị biến thành "Unpleasant
feelings" nên cái chế định bị biến đổi; còn cái cảm giác đau nhức đến
người nào cũng như nhau, thậm chí con trâu con bò cũng cảm giác như vậy khi bị đâm chích nó
mới rống lên vì rất đau đớn, nên Chơn Đế là cái không bị biến đổi.
Các khái niệm
như Tục Đế, Chơn Đế, Tâm, Tâm Sở, Sắc, Nibbāna,... chỉ là những khái niệm sơ
khởi căn bản để tiếp tục đi vào hiểu Kinh, Luận của đức Phật. Tứ Diệu Đế về ngôn
từ thì đều là Tục Đế hết nhưng nó dùng để mô tả toàn là pháp Chơn Đế cả. Hay
nói cách khác, các thực tại Chơn Đế được phản chiếu trong lời dạy của Tứ Diệu
Đế. Đức Phật chỉ mô tả Chơn Đế thôi. Chúng sanh muốn giải thoát khổ cũng do tuệ
tri Chơn Đế mà có được. Abhidhamma (Vi Diệu Pháp) về nguồn gốc lịch sử kinh
điển không rõ do ai giảng, nhưng những khái niệm được mô tả và được kinh nghiệm
của người đời sau thì rất sâu sắc nên chỉ có bộ óc Chánh Đẳng Giác như đức Phật
mới nói ra được, mới chế định ngôn từ được. Chú giải còn nói rằng sau khi đức Phật thuyết xong bộ thứ 7
trong VDP là Bộ Duyên Hệ thì cơ thể của Ngài phát ra hào quang rực rỡ do sự thể
hiện trí tuệ siêu việt của Ngài.
10:23pm Oct 31.
TIẾP THEO TOPIC NÀY LÀ HAI TOPICS: CÁC
QUAN ĐIỂM KHÁC NHAU VỀ ABHIDHAMMA VÀ VISUDDHIMAGGA
Thế nhưng các ý
kiến thảo luận nêu lên mâu thuẫn, gây tranh cãi. Một phía nêu lên các quan điểm
không thực tế, không y cứ trên lời dạy trực tiếp từ đức Phật của Vi Diệu Pháp
(Abhidhamma) và Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga); và một phía thì chỉ trích quan
điểm đó, trích dẫn nguồn tương đương trong Tam Tạng của Thanh Tịnh Đạo, cũng như đứng về phía thầy tổ của mình để tôn trọng tính hệ
thống của sự tu tập căn cứ vào Abhidhamma và Visuddhimagga một cách sâu rộng trên thế giới hiện nay.
P/s: Bất cứ một cuộc thảo luận nào cũng vậy, tinh thần là xây dựng và hiểu biết lẫn nhau, nhưng khó lòng tránh khỏi sự mâu thuẫn và va chạm trong các quan niệm riêng. Thảo luận Phật Pháp cũng tương tợ như vậy, trừ phi hội chúng ấy hoàn toàn là người đã đoạn tận hết phiền não. Con người thời nay thì càng không thể lấy trích dẫn kinh điển lời dạy của Đức Phật để gán tâm mình như tâm của các Bậc Thánh Nhân Lậu Tận trong Đạo Phật được nhằm nêu ý kiến và quan điểm của riêng mình, thực tế có lẽ khách quan hơn!
Nội dung trên được giữ lại gần như trọn vẹn theo nguyên bản của cuộc thảo luận, chỉ lược bớt những bình luận ra ngoài chủ đề chính.
Nguồn: Facebook Group: PALI-Chuyên Đề.
Nội dung trên được giữ lại gần như trọn vẹn theo nguyên bản của cuộc thảo luận, chỉ lược bớt những bình luận ra ngoài chủ đề chính.
Nguồn: Facebook Group: PALI-Chuyên Đề.
Thuận Pháp
tổng hợp.
No comments:
Post a Comment