Trích lời bài kinh Mahā-Satipaṭṭthāna (Đại Niệm Xứ):
Kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;
Vedanāsu vedanānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;
Citte cittānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;
Dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.
"Kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ": Vị ấy trú nơi thân, có quán sát thân, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm (có niệm) để được lìa xa tham, ưu ở đời. (viharati,đt, vị ấy trú, vị ấy ở; kāyānupassī, có sự quán sát thân; kāye, định sở cách, trên thân, nơi thân; ātāpī, tinh tấn, nhiệt tâm; sampajāno, tỉnh giác, thấy đúng, thấy như thực; satimā, có niệm, có ghi nhận rõ; vineyya, để được lìa xa, để được bỏ đi; abhijjhā, tham, domanassaṃ, ưu; loke, đsc, trên đời, trên thế gian).
Trong thiền minh sát, chúng ta cần chú trọng đến sự chánh niệm trên các đề mục vật chất và tâm. Các đề mục vật chất và tâm còn được gọi là năm uẩn bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức; trong Kinh Đại Niệm Xứ gọi là các đề mục thân, thọ, tâm, pháp. Vì sao chỉ cần chú trọng đến chánh niệm trên đề mục vật chất và tâm để hành thiền! Lý do là:
Thứ nhất, chánh niệm là một trong tám chi phần của Bát Chánh Đạo, là con đường dẫn đến sự giác ngộ Niết-bàn, giải thoát khỏi mọi phiền não từ thô đến vi tế.
Thứ hai, chánh niệm là một thuộc tính của tâm, có tác dụng làm quân bình các căn và hoàn toàn thiện lành. Theo Vi Diệu Pháp, chánh niệm hay tâm sở niệm (Niệm - Sati, là sự ghi nhận các đối tượng một cách đúng đắn rõ ràng) có mặt trong tất cả các loại tâm thiện (tâm đại thiện, tâm thiền và tâm siêu thế). Khi có chánh niệm rồi thì tất nhiên có luôn sự vô tham, vô sân,... nên các bất thiện không có cơ hội xen vào chiếm ngự tâm (Các bất thiện tâm, chúng rất lịch sự, sẽ không bao giờ nhảy vào chiếm chỗ ngồi của các thiện tâm khi các thiện tâm này vẫn đang còn an tọa!!!). Do đó, mọi người ai cũng có thể sẵn sàng sử dụng chánh niệm được nếu chỉ cần cố gắng hành thiền, không phải mất công tìm kiếm chánh niệm ở đâu xa bên ngoài thân tâm này. Một người muốn làm phước thiện bố thí cúng dường phải mất công làm việc thật tốt để tạo ra vật thực, tịnh tài mới thực hiện được việc bố thí ấy. (Mặc dầu vậy, người hành thiền cũng cần có phước bố thí cúng dường để làm duyên lành thanh lọc tâm, dễ dàng tái sinh cõi trời người, mong đạt được chánh niệm và chánh trí). Chánh niệm vì vậy như là một món quà quý báu miễn phí mà tạo hóa đã ban tặng cho người hành thiền, đức Phật chỉ là người đã dẫn ra cho chúng sanh thấy rõ chánh niệm thôi, và chỉ người hành thiền minh sát mới sử dụng chánh niệm để thực hành đưa đến sự giác ngộ giải thoát mà thôi; người tu định ngoài đạo Phật sử dụng chánh niệm để chứng đắc các tầng thiền và dừng lại ở đó, không giải thoát khổ được nếu không hướng tâm đến sự giác ngộ giải thoát; còn người không biết hành thiền nói rằng họ đi cũng biết đi, ngồi cũng biết ngồi,... nhưng sự thật tâm họ không an trú mạnh mẽ trên đề mục được và luôn vọng động ra bên ngoài đề mục, vọng động đến những chuyện quá khứ và tương lai của họ một cách không cần thiết.
Đức Phật dạy rằng đề mục của thiền minh sát phải là các đề mục dễ kiếm, dễ thấy và dễ ghi nhận nhất, đó là các đề mục chứa sẵn trong thân và tâm của chúng ta, cũng gọi là vật chất và tâm; quan trọng hơn là các đề mục này phải giúp người hành thiền minh sát dễ dàng phát triển chánh trí là thấy được tính chất vô thường, bất toại nguyện và vô ngã của đề mục ấy. Vô thường là vì bị biến đổi, sinh diệt. Khổ là vì không bền vững, mất mát. Vô ngã là vì không điều khiển được, không có thực tính. Đề mục tâm thì vô hình vô tướng, luôn thay đổi, sinh diệt rất nhanh, khó ghi nhận, nên lúc mới hành thiền chúng ta nên ưu tiên chọn đề mục vật chất để dễ ghi nhận.
Vì vậy cho nên người hành thiền minh sát cần phải tinh cần để phát triển chánh niệm trên đề mục chính của mình. Đề mục của thiền minh sát là vật chất và tâm, cách dễ nhất là chọn đề mục vật chất . Đề mục vật chất dễ thấy rõ nhất để ghi nhận là sự phồng xẹp ở bụng. Vật chất có các đặc tính cơ bản của nó là nóng, lạnh, cứng, mềm, chuyển động và sức hút. Có thể kể thêm đề mục vật chất khác là sự nóng lạnh hay sự chuyển động của hơi gió nơi lỗ mũi. Như vậy chúng ta đã phát triển hai phương tiện sẵn có là chánh tinh tấn và chánh niệm bên trong chúng ta. Kế tiếp chúng ta cần ý thức sáng suốt (tỉnh giác) để hay biết sự biến đổi, hay biết sự sinh diệt của đề mục. Ngoài ra còn có sự hay biết phụ khác là hay biết tâm bị rời khỏi đề mục chính do phóng dật và dã dượi buồn ngủ. Khi tâm sáng suốt hay biết như vậy để làm duyên phát triển tuệ giác, như tuệ về nhân quả (Ví dụ thấy đề mục biến mất là nhân thì quả là tâm sẽ không ghi nhận được đề mục đó nữa, chánh niệm mạnh mẽ thì sẽ thấy sự phồng xẹp có đoạn chấm dứt là nhân và quả là tâm sẽ không ghi nhận được nên phải hướng tâm ghi nhận đề mục khác như sự xúc chạm, cảm thọ đau nhức tê ngứa,...). Yếu tố quan trọng nữa là chúng ta hành thiền minh sát để hướng đến sự giác ngộ giải thoát khổ nên phải hướng tâm để thấy rõ sự vô thường, vô ngã của đề mục. Từ đó chúng ta thấy đề mục là không bền vững, luôn biến hoại, vô vị, không nghĩa lý, không đáng để dính mắc, tham đắm vào chúng. Đề mục vật chất là vậy thì đề mục tâm là sự biết, là sự ra lệnh và điều khiển mọi hoạt động về thân, khẩu, ý này cũng như thế, cũng không bền, biến hoại, không thực chất, nhàm chán nếu tham đắm vào. Suy ra mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này đều là không nghĩa lý, không có giá trị gì; là bấp bênh, là chất độc hại,...Vì thấy mọi sự là bấp bênh, là chất độc đáng sợ hãi như vậy nên chúng ta cần gấp rút vứt bỏ, tránh xa chúng càng sớm càng tốt. Ví như người mò cua bắt ốc ngoài ao hồ đầm lầy, do bị lầm tưởng con lươn mà bắt nhầm con rắn lên thì người ấy phải gấp rút mà vứt bỏ nó đi càng nhanh càng tốt. Chúng ta thực hành liên tục như vậy cho đến khi đạt được sự thản nhiên trước bất cứ sự đến đi nào của mọi đối tượng, của mọi hạnh phúc và khổ đau, diệt trừ được mọi tham đắm và ưu phiền, não hại liên quan đến thân và tâm của chúng ta trong cuộc đời (Hành Xả Tuệ).
Tóm lại, người hành thiền minh sát nhờ nhiệt tâm, tinh cần (có Chánh tinh tấn), ý thức sáng suốt (Tỉnh giác, hay trí tuệ thấy rõ sự sinh diệt của đề mục vật chất và tâm, thấy rõ nhân quả, thấy rõ tâm vọng động hay tâm mê mờ, tức có Chánh kiến) để ghi nhận đề mục phồng xẹp, đề mục chuyển động của gió nơi hơi thở (có Chánh niệm), và cuối cùng là hướng tâm đến sự giác ngộ giải thoát khổ ngay trong hiện tại (có thể gọi là Chánh tư duy, tư duy một cách chơn chánh đúng đắn đến sự giác ngộ giải thoát), thì người đó chắc chắn sẽ đạt được sự giải thoát giác ngộ một cách tốt đẹp, chấm dứt hay đoạn trừ được các phiền não từng phần hay không còn dư sót. Đương nhiên, muốn hành thiền minh sát để có được kết quả tốt đẹp và an tịnh, có lương tâm bình thản, hay có được sự quân bình của thân tâm thì hành giả phải giữ giới cho được trong sạch, xả bỏ mọi hối hận bất thiện trong quá khứ bằng cách phát triển tâm từ và tự tha thứ cho chính mình, có tâm xả ly chia sẻ (gọi là có Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng). Tiếp đến là hành giả ghi nhận đề mục chính một cách liên tục thì tâm sẽ ổn định được trên nó (có Chánh định). Như vậy chỉ cần bốn yếu tố ban đầu là tinh cần, tỉnh giác, hướng tâm đến sự giải thoát giác ngộ và đặc biệt là chánh niệm, mà tất cả tám yếu tố của Bát Chánh Đạo đều có mặt đầy đủ. Có thể nói là chỉ cần trở về chú ý ghi nhận sự phồng xẹp, hay trở về chú ý ghi nhận hơi gió nơi cái mũi không thôi cũng đưa đến giác ngộ, thoát khỏi khổ đau. Cũng có thể nói là chỉ cần có chánh niệm nơi sự phồng xẹp, chánh niệm nơi sự chuyển động của hơi thở cũng đưa tới giải thoát giác ngộ hay thành Phật được! Hành giả cố gắng hành thiền như vậy, không nên lo lắng, sợ hãi việc hành thiền (người phản đối việc hành thiền là người phá hoại đạo Phật vô cùng!). Vì đây là cách làm đúng theo con đường hay phương pháp chỉ dẫn trong Tam Tạng Pali của đức Phật Gotama và đã được kế thừa, lưu giữ, bảo trì qua bao thế hệ nơi các nước Nam truyền, chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ Niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
**TP.PA**
Kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;
Vedanāsu vedanānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;
Citte cittānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ;
Dhammesu dhammānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ.
"Kāye kāyānupassī viharati ātāpī sampajāno satimā, vineyya loke abhijjhādomanassaṃ": Vị ấy trú nơi thân, có quán sát thân, tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm (có niệm) để được lìa xa tham, ưu ở đời. (viharati,đt, vị ấy trú, vị ấy ở; kāyānupassī, có sự quán sát thân; kāye, định sở cách, trên thân, nơi thân; ātāpī, tinh tấn, nhiệt tâm; sampajāno, tỉnh giác, thấy đúng, thấy như thực; satimā, có niệm, có ghi nhận rõ; vineyya, để được lìa xa, để được bỏ đi; abhijjhā, tham, domanassaṃ, ưu; loke, đsc, trên đời, trên thế gian).
Trong thiền minh sát, chúng ta cần chú trọng đến sự chánh niệm trên các đề mục vật chất và tâm. Các đề mục vật chất và tâm còn được gọi là năm uẩn bao gồm sắc, thọ, tưởng, hành, thức; trong Kinh Đại Niệm Xứ gọi là các đề mục thân, thọ, tâm, pháp. Vì sao chỉ cần chú trọng đến chánh niệm trên đề mục vật chất và tâm để hành thiền! Lý do là:
Thứ nhất, chánh niệm là một trong tám chi phần của Bát Chánh Đạo, là con đường dẫn đến sự giác ngộ Niết-bàn, giải thoát khỏi mọi phiền não từ thô đến vi tế.
Thứ hai, chánh niệm là một thuộc tính của tâm, có tác dụng làm quân bình các căn và hoàn toàn thiện lành. Theo Vi Diệu Pháp, chánh niệm hay tâm sở niệm (Niệm - Sati, là sự ghi nhận các đối tượng một cách đúng đắn rõ ràng) có mặt trong tất cả các loại tâm thiện (tâm đại thiện, tâm thiền và tâm siêu thế). Khi có chánh niệm rồi thì tất nhiên có luôn sự vô tham, vô sân,... nên các bất thiện không có cơ hội xen vào chiếm ngự tâm (Các bất thiện tâm, chúng rất lịch sự, sẽ không bao giờ nhảy vào chiếm chỗ ngồi của các thiện tâm khi các thiện tâm này vẫn đang còn an tọa!!!). Do đó, mọi người ai cũng có thể sẵn sàng sử dụng chánh niệm được nếu chỉ cần cố gắng hành thiền, không phải mất công tìm kiếm chánh niệm ở đâu xa bên ngoài thân tâm này. Một người muốn làm phước thiện bố thí cúng dường phải mất công làm việc thật tốt để tạo ra vật thực, tịnh tài mới thực hiện được việc bố thí ấy. (Mặc dầu vậy, người hành thiền cũng cần có phước bố thí cúng dường để làm duyên lành thanh lọc tâm, dễ dàng tái sinh cõi trời người, mong đạt được chánh niệm và chánh trí). Chánh niệm vì vậy như là một món quà quý báu miễn phí mà tạo hóa đã ban tặng cho người hành thiền, đức Phật chỉ là người đã dẫn ra cho chúng sanh thấy rõ chánh niệm thôi, và chỉ người hành thiền minh sát mới sử dụng chánh niệm để thực hành đưa đến sự giác ngộ giải thoát mà thôi; người tu định ngoài đạo Phật sử dụng chánh niệm để chứng đắc các tầng thiền và dừng lại ở đó, không giải thoát khổ được nếu không hướng tâm đến sự giác ngộ giải thoát; còn người không biết hành thiền nói rằng họ đi cũng biết đi, ngồi cũng biết ngồi,... nhưng sự thật tâm họ không an trú mạnh mẽ trên đề mục được và luôn vọng động ra bên ngoài đề mục, vọng động đến những chuyện quá khứ và tương lai của họ một cách không cần thiết.
Đức Phật dạy rằng đề mục của thiền minh sát phải là các đề mục dễ kiếm, dễ thấy và dễ ghi nhận nhất, đó là các đề mục chứa sẵn trong thân và tâm của chúng ta, cũng gọi là vật chất và tâm; quan trọng hơn là các đề mục này phải giúp người hành thiền minh sát dễ dàng phát triển chánh trí là thấy được tính chất vô thường, bất toại nguyện và vô ngã của đề mục ấy. Vô thường là vì bị biến đổi, sinh diệt. Khổ là vì không bền vững, mất mát. Vô ngã là vì không điều khiển được, không có thực tính. Đề mục tâm thì vô hình vô tướng, luôn thay đổi, sinh diệt rất nhanh, khó ghi nhận, nên lúc mới hành thiền chúng ta nên ưu tiên chọn đề mục vật chất để dễ ghi nhận.
Vì vậy cho nên người hành thiền minh sát cần phải tinh cần để phát triển chánh niệm trên đề mục chính của mình. Đề mục của thiền minh sát là vật chất và tâm, cách dễ nhất là chọn đề mục vật chất . Đề mục vật chất dễ thấy rõ nhất để ghi nhận là sự phồng xẹp ở bụng. Vật chất có các đặc tính cơ bản của nó là nóng, lạnh, cứng, mềm, chuyển động và sức hút. Có thể kể thêm đề mục vật chất khác là sự nóng lạnh hay sự chuyển động của hơi gió nơi lỗ mũi. Như vậy chúng ta đã phát triển hai phương tiện sẵn có là chánh tinh tấn và chánh niệm bên trong chúng ta. Kế tiếp chúng ta cần ý thức sáng suốt (tỉnh giác) để hay biết sự biến đổi, hay biết sự sinh diệt của đề mục. Ngoài ra còn có sự hay biết phụ khác là hay biết tâm bị rời khỏi đề mục chính do phóng dật và dã dượi buồn ngủ. Khi tâm sáng suốt hay biết như vậy để làm duyên phát triển tuệ giác, như tuệ về nhân quả (Ví dụ thấy đề mục biến mất là nhân thì quả là tâm sẽ không ghi nhận được đề mục đó nữa, chánh niệm mạnh mẽ thì sẽ thấy sự phồng xẹp có đoạn chấm dứt là nhân và quả là tâm sẽ không ghi nhận được nên phải hướng tâm ghi nhận đề mục khác như sự xúc chạm, cảm thọ đau nhức tê ngứa,...). Yếu tố quan trọng nữa là chúng ta hành thiền minh sát để hướng đến sự giác ngộ giải thoát khổ nên phải hướng tâm để thấy rõ sự vô thường, vô ngã của đề mục. Từ đó chúng ta thấy đề mục là không bền vững, luôn biến hoại, vô vị, không nghĩa lý, không đáng để dính mắc, tham đắm vào chúng. Đề mục vật chất là vậy thì đề mục tâm là sự biết, là sự ra lệnh và điều khiển mọi hoạt động về thân, khẩu, ý này cũng như thế, cũng không bền, biến hoại, không thực chất, nhàm chán nếu tham đắm vào. Suy ra mọi sự vật hiện tượng trên thế gian này đều là không nghĩa lý, không có giá trị gì; là bấp bênh, là chất độc hại,...Vì thấy mọi sự là bấp bênh, là chất độc đáng sợ hãi như vậy nên chúng ta cần gấp rút vứt bỏ, tránh xa chúng càng sớm càng tốt. Ví như người mò cua bắt ốc ngoài ao hồ đầm lầy, do bị lầm tưởng con lươn mà bắt nhầm con rắn lên thì người ấy phải gấp rút mà vứt bỏ nó đi càng nhanh càng tốt. Chúng ta thực hành liên tục như vậy cho đến khi đạt được sự thản nhiên trước bất cứ sự đến đi nào của mọi đối tượng, của mọi hạnh phúc và khổ đau, diệt trừ được mọi tham đắm và ưu phiền, não hại liên quan đến thân và tâm của chúng ta trong cuộc đời (Hành Xả Tuệ).
Tóm lại, người hành thiền minh sát nhờ nhiệt tâm, tinh cần (có Chánh tinh tấn), ý thức sáng suốt (Tỉnh giác, hay trí tuệ thấy rõ sự sinh diệt của đề mục vật chất và tâm, thấy rõ nhân quả, thấy rõ tâm vọng động hay tâm mê mờ, tức có Chánh kiến) để ghi nhận đề mục phồng xẹp, đề mục chuyển động của gió nơi hơi thở (có Chánh niệm), và cuối cùng là hướng tâm đến sự giác ngộ giải thoát khổ ngay trong hiện tại (có thể gọi là Chánh tư duy, tư duy một cách chơn chánh đúng đắn đến sự giác ngộ giải thoát), thì người đó chắc chắn sẽ đạt được sự giải thoát giác ngộ một cách tốt đẹp, chấm dứt hay đoạn trừ được các phiền não từng phần hay không còn dư sót. Đương nhiên, muốn hành thiền minh sát để có được kết quả tốt đẹp và an tịnh, có lương tâm bình thản, hay có được sự quân bình của thân tâm thì hành giả phải giữ giới cho được trong sạch, xả bỏ mọi hối hận bất thiện trong quá khứ bằng cách phát triển tâm từ và tự tha thứ cho chính mình, có tâm xả ly chia sẻ (gọi là có Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng). Tiếp đến là hành giả ghi nhận đề mục chính một cách liên tục thì tâm sẽ ổn định được trên nó (có Chánh định). Như vậy chỉ cần bốn yếu tố ban đầu là tinh cần, tỉnh giác, hướng tâm đến sự giải thoát giác ngộ và đặc biệt là chánh niệm, mà tất cả tám yếu tố của Bát Chánh Đạo đều có mặt đầy đủ. Có thể nói là chỉ cần trở về chú ý ghi nhận sự phồng xẹp, hay trở về chú ý ghi nhận hơi gió nơi cái mũi không thôi cũng đưa đến giác ngộ, thoát khỏi khổ đau. Cũng có thể nói là chỉ cần có chánh niệm nơi sự phồng xẹp, chánh niệm nơi sự chuyển động của hơi thở cũng đưa tới giải thoát giác ngộ hay thành Phật được! Hành giả cố gắng hành thiền như vậy, không nên lo lắng, sợ hãi việc hành thiền (người phản đối việc hành thiền là người phá hoại đạo Phật vô cùng!). Vì đây là cách làm đúng theo con đường hay phương pháp chỉ dẫn trong Tam Tạng Pali của đức Phật Gotama và đã được kế thừa, lưu giữ, bảo trì qua bao thế hệ nơi các nước Nam truyền, chắc chắn sẽ đạt được giác ngộ Niết-bàn ngay trong kiếp sống hiện tại này.
**TP.PA**
No comments:
Post a Comment