* Tất cả đều là Pháp, Pháp chia làm 2:
Chân Đế và Tục Đế.
- Chân Đế là sự thật tuyệt đối, Tục Đế
chỉ là tên gọi. Tục Đế để qua một bên, ta học Chân Đế.
Ví dụ minh họa: Con tên là gì? Dạ Hào! Con lấy
tay sờ trên cơ thể coi chỗ nào là Hào đâu! Như vậy tên Hào chỉ là Tục Đế thôi.
Còn Chân Đế là gì? Sờ vào cơ thể thấy nóng nóng, lạnh lạnh, cứng, mềm,... cái
đó mới gọi là Chân Đế. Do đó khi đang hành thiền với oai nghi đi, nếu chúng ta chú ý đến khái niệm "cái chân của
tôi bước đi, cái chân của anh bước đi" là chú ý Tục Đế; còn chú ý sự cứng, mềm, nóng, lạnh,... nơi bàn
chân khi tiếp xúc với mặt đất là đang ghi nhận Chân Đế. Chúng ta chỉ chú ý đến Chân Đế thôi, vì Chân Đế là đối tượng của pháp hành Thiền Tuệ - Vipassanā Bhāvanā.
- Chân Đế chia làm 2: Hữu vi và Vô vi.
Vô vi là Niết-bàn, để qua một bên, ta học Hữu vi.
- Hữu vi chia làm 2: Vật chất và Tâm.
Vật chất là Đất, Nước, Gió, Lửa. Ta ưu tiên học phần Tâm:
* Tâm chia làm 2: Tâm vương và Tâm sở.
Tâm vương là tâm chính, tâm sở là những thành phần của tâm vương.
Ví dụ minh họa: Tâm vương ví như nồi súp, tâm
sở như các thành phần nguyên liệu để nấu súp. Tâm vương như là nước súp, tâm sở
là các loại gia vị trong nước súp. Muốn thử nước súp ngon hay dở thì phải dựa
vào gia vị của nước súp để nhận biết. Sự nhận biết ngon dở chung chung đó ví
như tâm vương, thử xem súp này có cay không, có ngọt không, có mặn không?...
Những chi tiết nhỏ như vậy ví như tâm sở. Vì vậy tâm vương không thể tách rời
tâm sở được, hay tâm vương và tâm sở luôn luôn đi cùng với nhau.
(Học tâm vương hay tâm sở trước đều được)
* Tâm sở gồm có 52, chia làm 3 nhóm:
13 tâm sở ba phải (thiện
cũng được, bất thiện cũng được),
14 tâm sở bất thiện, và 25 tâm sở thiện. (13, 14, 25)
- Nhóm 13 tâm sở ba phải chia làm 2: 7
tâm sở ba phải chung, 6 tâm sở ba phải riêng.
- Nhóm 7 tâm sở ba phải chung là: Xúc,
Thọ, Tưởng, Tác (Cố ý) (Cố ý tạo tác các tất cả mọi việc), Định, Mạng, Chủ (Chủ ý) (Huy động tất cả các tâm sở đến thực hiện nhiệm vụ mà mình đã cố ý thực hiện).
- Nhóm 6 tâm sở ba phải riêng là: Tầm,
Tứ, Quyết, Tấn, Hỷ (Phỉ), Dục.
Ví dụ minh họa: Một người lấy một chai nước để
ở trên bàn. Nếu cái chai nước không phải của người đó, người đó là ăn cắp, thì
tâm lấy đó là tâm bất thiện. Nếu người đó lấy chai nước rồi đem đi cúng dường,
thì tâm cúng dường đó là tâm thiện. Chúng ta xét đến các thành phần của tâm lấy
chai nước. Khi muốn lấy chai nước, đầu tiên phải nhìn thấy cái chai, tức tâm
phải tiếp xúc được với cái chai, gọi là Xúc. Thấy chai
nước liền có cảm giác vui vẻ hay cảm giác thản nhiên, gọi là Thọ.
Nhìn cái chai biết đây là chai đựng nước để uống do trước đó thường hay kinh
nghiệm rồi, gọi là Tưởng. Khi lấy có sự cố ý để lấy, gọi
là Tác (Cố ý). Rồi phải ổn định tâm trên cái chai
mới lấy được, thấy rõ nhất là người bị chứng run tay càng phải định tâm hơn nữa
mới lấy được, không thì tay có thể bị trật ra khỏi chai nước, gọi là Định.
Lúc xảy ra hành động lấy chai nước thì tâm phải sống, không giống như người
đang ngủ sẽ không biết gì cả, gọi là Mạng. Cuối cùng người
lấy đó phải có chủ ý, mục đích lấy để làm gì, lấy để uống giải khát hay mang
đem cho, gọi là Chủ (Chủ ý). Những thành phần, chi
tiết nhỏ tạo nên việc lấy chai nước đó gọi là các tâm sở. Sự việc lấy chai nước
là ăn cắp (bất thiện) hay mang đi cúng dường (thiện) gọi là tâm vương, hay tâm
chính, tâm chủ đạo.
Nhóm tâm sở ba phải chung là bắt buộc phải có
trong tất cả các tâm vương, còn các tâm sở ba phải riêng có cũng được, không có
cũng được. Ví như bát bún bò thì bắt buộc phải có bún, có thịt bò mới ra bún
bò, tâm sở ba phải chung là như bún và thịt bò; còn có thể bỏ thêm tiêu, thêm
ớt hay không là tùy theo sở thích của người dùng, tâm sở ba phải riêng như là
tiêu và ớt.
Các tâm sở ba phải riêng có trong các tâm
vương bình thường và phát triển mạnh mẽ trong các tâm thiền. Tầm là hướng tâm đến đối tượng, Tứ là chà xát trên đối tượng. Ví như con
ong đi tìm mật. Ban đầu nó bay tìm thấy bông hoa, gọi là Tầm. Tiếp đến là nó
bay xung quanh bông hoa một hồi và đậu lên nhụy hoa, gọi là Tứ. Nó thấy cái
nhụy hoa thì vui thích, hoan hỷ, gọi là Hỷ.
Nó hút hết nhựa hoa một cách no đầy khoan khoái, gọi là Lạc. Xong nó trú và ngủ
trên ngụy hoa một lúc, gọi là Định. Ở đây chỉ xét hai yếu tố là Tầm và Tứ thôi.
Người mới hành thiền thì đạt được Tầm và Tứ lâu hơn, khó khăn hơn. Sau khi hành
thiền giỏi rồi, thuần thục rồi thì có Tầm, có Tứ rất dễ dàng, có thể ngồi xuống
là có ngay liền, không cần phải cố gắng nhiều. Nếu thuần thục hơn nữa thì chỉ
cần hướng đến đề mục là định tâm trên nó liền, gần như bỏ qua luôn giai đoạn
Tầm và Tứ.
Tâm sở Quyết là thể hiện sự quyết tâm, ý chí mạnh
mẽ của tâm, sự ý chí quyết tâm này sẽ bị thối lui khi tâm có sự nghi ngờ hay
Hoài nghi. Tâm sở Tấn là thể hiện sự cố gắng, nổ lực của
tâm. Tâm sở Dục là thể hiện sự mong muốn của tâm.
- Nhóm 14 tâm sở bất thiện chia làm 4:
4 tâm sở bất thiện chung, 3 tâm sở bất thiện nắm giữ, 4 tâm sở bất thiện từ
chối, 3 tâm sở bất thiện lờ đờ. (4,
3, 4, 3)
- Nhóm 4 tâm sở bất thiện chung là:
Si, Không hổ thẹn tội lỗi (Vô
tàm), Không ghê sợ tội
lỗi (Vô quý), và Bất an.
- Nhóm 3 tâm sở bất thiện nắm giữ là:
Tham, Tà kiến, Mạn.
- Nhóm 4 tâm sở bất thiện từ
chối (đẩy ra) là: Sân, Ganh tỵ, Bủn xỉn, Hối hận.
- Nhóm 3 tâm sở bất thiện lờ đờ là: Dã
dượi, Buồn ngủ, Hoài nghi.
Nhóm tâm sở bất thiện chung đều có mặt trong
tất cả các loại tâm bất thiện. Người mà làm ác được là do vì Si – không phân biệt được thiện ác, tốt
xấu, không thấy rõ thực tính pháp, cũng như không
Hổ thẹn, không
Ghê sợ tội lỗi và Bất an. Người làm ác
thì gây ra đau khổ cho người, cho mình và cho cả hai. Nhiều người có thể ghê sợ
tội lỗi nhưng hổ thẹn tội lỗi thì tiềm ẩn và luồn lách như con lươn. Ví như một
người đổ rác, người này đổ ra ngoài thùng rác thì sợ bị phạt nên ban ngày không
dám đổ, nhưng lại chờ đến tối 12 giờ đêm mới đổ rác vung vãi không đúng nơi đúng
chỗ, đối với người này thì có sự sợ hãi nhưng không có sự hổ thẹn đối với việc làm sai trái của mình.
Nhóm tâm sở nắm giữ: Tham thì đương nhiên là nắm giữ rồi. Tà kiến thuộc loại nắm giữ ví như mình sai mà
cứ cho rằng đúng, ai nói gì cũng không nghe, nắm giữ cái sai của mình (Tà kiến
nói cho dễ hiểu là không tin Nghiệp và quả của nghiệp, Chánh kiến là tin Nghiệp
và quả của nghiệp). Mạn là so sánh mình với người, cũng thuộc
loại nắm giữ, như kiêu mạn là luôn cho rằng mình hơn người; mình bằng người
cũng kiêu, như cô ấy có nhà tôi cũng có nhà, cô ấy có xe tôi cũng có xe nên tôi
cũng ngon lành; mình thua người cũng kiêu, như xe tôi cũ kỹ không ai ăn cắp,
nhà tôi nghèo tối ngủ không cần khóa cửa nên tôi ngon lành hơn; nói chung là
nắm giữ sự ngon lành, hơn người của mình, cái gì cũng tìm cách hơn người ta. Vì
Tà kiến nên sinh sự dính mắc hay tham đắm, cũng như vì kiêu mạn nên sinh dính
mắc hay tham đắm. Nhưng Tà kiến và Mạn không bao giờ đi chung với
nhau, chúng như hai con hổ dữ vậy, không bao giờ ở chung trong cùng một
khu rừng hay trong cùng một cái hang.
Nhóm tâm sở từ chối: Sân là vì việc xảy ra không như ý mình,
muốn đẩy ra. Ganh tỵ,
tức là không muốn người ta hơn mình, không muốn người khác giàu có hơn mình,
không muốn người khác thành công hơn mình; thường chỉ làm cha làm mẹ mới không
ganh tỵ với con cái thôi. Bủn
xỉn, tức là không muốn người khác có những cái như mình có, không cho
ai những cái mà mình đã có, nghe người ta có những cái như mình thì sinh bực
tức. Hối hận,
tức là không muốn chuyện đã xảy ra trong quá khứ, muốn trốn tránh hay đẩy đi
chuyện đó đi, hay lo lắng chuyện sẽ xảy ra trong tương lai mà không theo ý mình
cũng thuộc sự từ chối, đẩy ra.
Nhóm tâm sở lờ đờ: Dã dượi, Buồn ngủ là các trạng thái tâm mê mờ, mệt mỏi,
yếu ớt, lờ đờ, xiêu vẹo. Hoài
nghi là trạng thái tâm nghi
ngờ, nghi Nghiệp và quả của nghiệp, nghi Nhân Quả; như nghi ngờ rằng không biết
làm thiện có đem lại sự an vui không, làm ác có đưa đến sự đau khổ hay không.
- Nhóm 25 tâm sở thiện chia làm 3: 7
tâm sở thiện chung, 6 cặp tâm sở thiện chung, và 6 tâm sở thiện. (7, 6 cặp, 6).
- Nhóm 7 tâm sở thiện chung là: Tín,
Niệm, Hổ thẹn tội lỗi (Tàm), Ghê sợ tội lỗi (Quý),
Không tham, Không sân (Từ), Xả.
Các tâm sở này đối trị với các tâm sở bất
thiện. Hổ thẹn tội lỗi và Ghê sợ tội lỗi là hai pháp bảo vệ thế gian.
Khi chúng ta làm bất cứ một việc phước thiện gì thì cả thảy 7 tâm sở thiện
chung này cùng với 6 cặp tâm sở thiện chung đều sinh lên cùng lúc, hay chúng
luôn đi cùng nhau. Do vậy, nếu người hành thiền chỉ cần phát triển Niệm là sự chú ý ghi nhận rõ ràng đề mục
hành thiền của mình thôi thì 18 tâm sở thiện còn lại tự động sinh lên luôn, rất
lợi lạc, gọi là đi buôn 1 vốn mà 19 lời. Đây là điểm chúng ta cần lưu ý để trau
dồi việc phước thiện của mình.
- Nhóm 6 cặp tâm sở thiện chung là:
+ Khinh an, Thư thái, Mềm dẻo, Thích ứng, Điêu luyện, Chánh trực. (Các tâm sở làm cho tâm đồng sinh có trạng thái nhẹ nhàng, điêu
luyện,... khi làm việc thiện);
+ Thân khinh an, Thân thư thái, Thân mềm dẻo, Thân thích ứng, Thân điêu luyện,
Thân chánh trực. (Các tâm
sở này làm cho các tâm sở đồng sinh với nó có trạng thái nhẹ nhàng, mềm dẻo,... khi làm việc thiện).
- Nhóm 6 tâm sở thiện là: 3 Chánh (hay Tiết chế) là
Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng; 2 Vô lượng là Bi, Hỷ (Bi vô lượng, Hỷ vô lượng); 1 Huệ (Tuệ) (Trí).
Trong Tứ Vô Lượng Tâm, tức là 4 tâm có đối
tượng nhiều vô lượng, có đối tượng là tất cả các chúng sanh, gồm có Từ, Bi, Hỷ,
Xả thì Từ ở đây đồng nghĩ với tâm sở Không sân hay Vô sân; Bi là tâm sở Bi vô
lượng; Hỷ là tâm sở Hỷ vô lượng, cần phân biệt với tâm sở Hỷ ba phải (Phỉ) ở
trên; Xả là tâm sở Xả, tâm bình thản hay tâm không thiên vị trước tất cả chúng
sanh, coi mọi chúng sanh đều có Nghiệp là tài sản riêng của họ, thành công hay
thất bại tùy thuộc vào Nghiệp riêng của họ. Tâm sở Huệ là trí thấy đúng thực tánh của sự vật
hay thấy đúng thực tánh pháp, thấy Nhân quả Ngiệp báo hay biết Nghiệp và quả của Nghiệp,
Huệ đồng nghĩa với Chánh kiến, đối trị với Tà kiến.
* Tâm vương có 89, chia làm 2: 8 tâm
siêu thế và 81 tâm hiệp thế.
- Tâm siêu thế có 8 là: 4 Đạo, 4 Quả.
- 4 Đạo là: Tu-đà-hoàn đạo, Tư-đà-hàm
đạo, A-na-hàm đạo, A-la-hán đạo.
- 4 Quả là: Tu-đà-hoàn quả, Tư-đà-hàm
quả, A-na-hàm quả, A-la-hán quả.
Bậc Thánh đắc Đạo một lần là hưởng Quả liền và
hưởng mãi, không mất Quả. Ví như một người học xong đại học y khoa, được cấp
bằng tốt nghiệp đại học một lần thì có thể làm bác sỹ suốt đời vậy. Bậc Thánh
cũng luôn hành thiền khi cần để nghĩ dưỡng và để hưởng Quả Thánh của mình, ví
như xạc lại pin để lấy lại năng lượng vậy.
- Tâm hiệp thế có 81, chia làm 2: 27
tâm thiền và 54 tâm không thiền.
- Tâm thiền có 27, chia làm 2: 15 tâm
thiền hữu sắc và 12 tâm thiền vô sắc.
- Tâm thiền hữu sắc có 5 là: Nhất
thiền, Nhị thiền, Tam thiền, Tứ thiền, và Ngũ thiền.
- Tâm thiền hữu sắc sẽ cho quả ngay
lập tức gọi là tâm thiền quả, ngoài ra có thêm tâm thiền duy tác của bậc Thánh
A-la-hán do các ngài tu thiền hữu sắc, tổng cộng 5x3 = 15 tâm thiền hữu sắc.
- Tâm thiền vô sắc có 4 là: Không vô
biên xứ thiền, Thức vô biên xứ thiền, Vô sở hữu xứ thiền, và Phi tưởng phi phi
tưởng xứ thiền.
- Tâm thiền vô sắc cũng sinh tâm quả
liền sau đó và tâm thiền duy tác của bậc Thánh A-la-hán nếu các ngài có tu thiền vô
sắc, tổng cộng có 4x3 = 12 tâm thiền vô sắc.
- Tâm không thiền có 54, chia làm 3:
12 tâm bất thiện, 24 tâm thiện, và 18 tâm vô nhân (tâm dị thục vô nhân).
- Tâm bất thiện có 12 là: 8 tâm tham,
2 tâm sân, và 2 tâm si.
- Tâm sân có 2: đi với Ưu (cảm thọ buồn) và Hận (Sân),
một tâm tự động; một tâm bị xúi giục.
- Tâm si có 2: đi với Xả (cảm thọ xả, không vui không buồn), một tâm Hoài nghi; một tâm Bất an.
+ Tâm tham thứ 1: Hỷ, Tà , Tự động. (Hỷ: cảm thọ vui; Tà: Tà kiến, không tin Nghiệp)
+ Tâm tham thứ 2: Hỷ, Tà, Xúi giục. (Chẵn là bị xúi giục, đi hai người mới bị xúi giục, đi một
mình không bị!)
+ Tâm tham thứ 3: Hỷ, Không Tà, Tự
động. (Biết
sai trái nhưng vẫn làm ác do tham mạnh hơn)
+ Tâm tham thứ 4: Hỷ, Không Tà, Xúi
giục.
+ Tâm tham thứ 5: Xả, Tà, Tự động. (Xả: cảm thọ xả)
+ Tâm tham thứ 6: Xả, Tà, Xúi giục.
+ Tâm tham thứ 7: Xả, Không Tà, Tự
động.
+ Tâm tham thứ 8: Xả, Không Tà, Xúi
giục.
(tương ứng học 8 tâm thiện liền, để thấy
làm việc thiện cũng có 8 tâm và có Hỷ, có Xả)
- Tâm thiện có 24, chia làm 3: 8 tâm
thiện, 8 tâm thiện quả, và 8 tâm thiện duy tác.
+ Tâm thiện thứ 1: Hỷ, Trí, Tự
động.
+ Tâm thiện thứ 2: Hỷ, Trí, Khuyên
bảo. (Thay Xúi giục bằng
Khuyên bảo để hợp với điều thiện)
+ Tâm thiện thứ 3: Hỷ, Ly Trí, Tự
động.
+ Tâm thiện thứ 4: Hỷ, Ly Trí, Khuyên
bảo.
+ Tâm thiện thứ 5: Xả, Trí, Tự động.
+ Tâm thiện thứ 6: Xả, Trí, Khuyên
bảo.
+ Tâm thiện thứ 7: Xả, Ly Trí, Tự
động.
+ Tâm thiện thứ 8: Xả, Ly Trí, Khuyên
bảo.
(Tâm thiện thì cho quả liền, thêm chữ quả
sau tâm thiện)
+ Tâm thiện quả thứ 1: Hỷ, Trí, Tự
động, Quả.
+ Tâm thiện quả thứ 2: Hỷ, Trí, Khuyên
bảo, Quả.
+ Tâm thiện quả thứ 3: Hỷ, Ly Trí, Tự
động, Quả.
+ Tâm thiện quả thứ 4: Hỷ, Ly Trí,
Khuyên bảo, Quả.
+ Tâm thiện quả thứ 5: Xả, Trí, Tự
động, Quả.
+ Tâm thiện quả thứ 6: Xả, Trí, Khuyên
bảo, Quả.
+ Tâm thiện quả thứ 7: Xả, Ly Trí, Tự
động, Quả.
+ Tâm thiện quả thứ 8: Xả, Ly Trí,
Khuyên bảo, Quả.
(Trường hợp bậc Thánh A-la-hán sau khi đắc
Đạo Quả và còn đang sống trên đời cũng làm việc thiện, nhưng việc thiện này
không cho quả nữa, chỉ thuần là việc làm tự nhiên, gọi là duy tác. Như vậy thêm
duy tác sau tâm thiện).
- Tâm thiện duy tác có 8 là:
+ Tâm thiện duy tác thứ 1: Hỷ, Trí, Tự
động, Duy tác.
+ Tâm thiện duy tác thứ 2: Hỷ, Trí,
Khuyên bảo, Duy tác.
+ Tâm thiện duy tác thứ 3: Hỷ, Ly Trí,
Tự động, Duy tác.
+ Tâm thiện duy tác thứ 4: Hỷ, Ly Trí,
Khuyên bảo, Duy tác.
+ Tâm thiện duy tác thứ 5: Xả, Trí, Tự
động, Duy tác.
+ Tâm thiện duy tác thứ 6: Xả, Trí,
Khuyên bảo, Duy tác.
+ Tâm thiện duy tác thứ 7: Xả, Ly Trí,
Tự động, Duy tác.
+ Tâm thiện duy tác thứ 8: Xả, Ly Trí,
Khuyên bảo, Duy tác.
- Tâm vô nhân có 18, chia làm 3: 7
tâm quả vô nhân khổ, 8 tâm quả vô nhân lạc, 3 tâm duy tác vô nhân.
Tâm vô nhân (hay còn gọi là tâm dị thục vô
nhân; dị là sai khác, biến đổi; thục là chín; dị thục là chín và biến chất
thành cái khác) là những tâm không thiện không ác, hay không có các nhân là
tham, sân, si, vô tham, vô sân, và vô si. Như một người sau khi sinh vào cõi
tốt lành thì tự nhiên là mắt thấy cảnh đẹp, tai nghe tiếng hay, mũi ngửi hương
thơm,... là do kiếp trước đã tạo nghiệp tốt lành. Người đã tạo nghiệp xấu ác thì
sinh vào nơi hay cõi xấu xa, nơi đầy đau khổ, nơi thường hay gặp cảnh chiến
tranh, trộm cướp,... Hoặc người có nghiệp tốt thì đi đâu cũng nghe lời tốt
tiếng lành, người có nghiệp xấu thì đi đâu cũng nghe lời xấu tiếng ác.
- Nhóm 7 tâm quả vô nhân khổ là: Nhãn
thức, thọ Xả; Nhĩ thức, thọ Xả; Tỷ thức, thọ Xả; Thiệt thức, thọ Xả; Thân thức,
thọ Khổ; Tiếp thọ (Thu
nhận), thọ Xả; Suy đạt (Xem xét),
thọ Xả. (Thân rất mạnh và
diện rộng, đụng vào là khổ liền).
- Nhóm 8 tâm quả vô nhân lạc là: Nhãn
thức, thọ Xả; Nhĩ thức, thọ Xả; Tỷ thức, thọ Xả; Thiệt thức, thọ Xả; Thân thức,
thọ Lạc; Tiếp thọ, thọ Xả; Suy đạt, thọ Xả; Suy đạt, thọ Hỷ. (Tâm thiện rất mạnh, nên ngoài cho quả thọ xả còn cho thêm
quả thọ hỷ nữa).
- Nhóm 3 tâm duy tác vô nhân:
+ 1 ngũ môn hướng tâm thọ xả.
Ví như sau khi (các ngũ song thức đã ghi nhận rồi) nghe một tiếng động lớn thình lình
đến thì mắt sẽ hướng tới, tai sẽ hướng tới, mũi sẽ hướng tới (nếu có mùi),... một
cách tự động, tức cả 5 giác quan trên thân đều hướng tới chỗ có tiếng động đó cùng một
lúc, và hành động này xảy ra một cách tự nhiên, thuần phản xạ tự nhiên (gọi là duy tác), không thiện không ác.
+ 1 ý môn hướng tâm thọ xả.
Ví như cũng tiếng động trên là do cái thước
đập xuống mặt bàn, sau khi Ngũ môn hướng tâm hướng đến rồi thì thấy cái thước,
lúc này chỉ còn một cửa nhận thức thôi là tâm biết cái thước đó, sự hay biết
này cũng diễn ra ngay sau ngũ môn hướng tâm và có sự cố gắng để nhận biết, và tâm này cũng không thiện không ác.
+ 1 tiếu sanh tâm thọ hỷ.
Tiếu sanh tâm là tâm duy tác vô nhân làm thành nụ
cười của bậc Thánh A-la-hán, các ngài cười như thể hưởng sự an vui do đã hết phiền não trong tâm. (Việc này để vị
A-la-hán lo, chúng ta chỉ việc lo hành thiền!).
(Phần chữ đậm ở trên nên học thuộc lòng).
* Phần tương ưng giữa 89 tâm vương và
52 tâm sở. (Sự kết hợp giữa tâm vương và tâm sở)
Như vậy là chúng ta đã học các loại món
ăn, công thức chế biến và nguyên liệu chế biến món ăn đã có sẵn, công việc tiếp
theo là chúng ta xem xét từng món ăn cần thứ nguyên liệu gì, hoặc một loại
nguyên liệu thì dùng được cho bao nhiêu món ăn.
Trước hết, chúng ta cần chú ý các điểm sau:
+ 7 tâm sở ba phải chung luôn luôn đi cùng
trong tất cả các tâm vương;
+ 4 tâm sở bất thiện chung luôn luôn có mặt
trong tất cả các tâm vương bất thiện;
+ 19 tâm sở thiện chung (7 tâm, 6 cặp) luôn
luôn sinh lên cùng lúc trong tất cả các tâm thiện, tâm thiền và tâm Đạo Quả;
+ Các ngũ song thức (10 tâm) vì là tâm quả và
vô nhân nên tất cả các tâm sở có tính chất chủ động và tính chất đạo đức như
thiện hay bất thiện đều không có mặt, nên chúng chỉ có 7 tâm sở ba phải chung
mà thôi;
+ Trong các tâm tham thì hai tâm sở Tà kiến và
Mạn nếu có mặt cái nào thì các kia mất, như hai con hổ dữ không thể ở cùng
chung một chuồng.
+ Các tâm vương không thể tự quyết hay cần có
sự tác động thì luôn có các tâm sở lờ đờ là Dã dượi, Buồn ngủ; hai tâm sở Hoài
nghi và Quyết không thể ở chung với nhau vì tâm có sự nghi ngờ thì không thể
quyết định được việc gì;
+ Các tâm xảy ra một cách tự động, không cần
nổ lực gì thì không có tâm sở Tấn; Tâm si thì bị mê mờ, bị che lấp và tâm quả
vô nhân thì thụ động nên không cần một sự mong muốn nào, do đó không có tâm sở
Dục;
+ Tâm thiện quả, Tâm ngũ thiền thì bỏ hỷ và
lạc, và tâm Đạo Quả thì có Xả vô lượng nên các loại tâm này không có hai tâm sở
thiện vô lượng là Bi và Hỷ;
+ Tâm thiện và tâm Đạo Quả mới có 3 Chánh (3
tiết chế), còn các tâm thiện quả, thiện duy tác không có, các tâm thiền thì
không cần tiết chế vì đối tượng của chúng là các quang tướng nên không cần phải
tiết chế, các đối tượng có liên quan tới chúng sanh mới cần có sự tiết chế;
+ Tâm sở Huệ có trong các tâm thiện hợp trí,
tâm thiền và tâm Đạo Quả;
+ Cuối cùng tùy theo các chi phần nổi trội mà
các tâm vương phải tương ưng với các tâm sở nổi trội đó, như tâm hợp Trí thì có
tâm sở Huệ, tâm hợp Tà thì có tâm sở Tà kiến.
- Tâm tham thứ nhất (Hỷ, Tà, Tự động) có bao nhiêu tâm sở? Gồm: 7 tâm sở ba phải chung bắt buộc phải có, 6 tâm sở ba phải riêng cũng đều có mặt, 4 tâm sở bất thiện chung cũng bắt buộc phải có, cuối cùng là sự góp mặt của 2 tâm sở bất thiện nắm giữ là Tham và Tà kiến. Tổng cộng có cả thảy 19 tâm sở.
- Tâm tham thứ hai (Hỷ, Tà, Xúi giục) có bao nhiêu tâm sở? Gồm: 7 tâm sở ba phải chung, 6 tâm sở ba phải riêng, 4 tâm sở bất thiện chung, hai tâm sở bất thiện nắm giữ là Tham và Tà kiến, vì tâm bị xúi giục nên có thêm hai tâm sở bất thiện lờ đờ là Dã dượi, Buồn ngủ. Tổng cộng có cả thảy là 21 tâm sở.
- Tâm tham thứ ba, thứ tư: Vì không Tà nên Mạn sẽ nhảy vào thế chỗ nên cũng tương tự như tâm tham thứ nhất và thứ hai, tâm tham thứ ba có 19 tâm sở, tâm tham thứ tư có 21 tâm sở.
- 4 tâm tham còn lại: Vì cả 4 tâm tham này đều là thọ xả, nên tâm sở Hỷ (Phỉ) bị loại trừ, còn lại thì tương tự 4 tâm tham đầu, nên tâm tham thứ năm có 18 tâm sở, tâm tham thứ sáu có 20 tâm sở, tâm tham thứ bảy có 18 tâm sở, tâm tham thứ tám có 20 tâm sở.
- Hai tâm sân: Cả hai tâm sân đều là thọ ưu (buồn) nên không có tâm sở Hỷ (Phỉ), hợp với hận (Sân) nên cả 4 tâm sở bất thiện từ chối đều có mặt. Như vậy tâm sân thứ nhất bao gồm 7 tâm sở ba phải chung, 5 tâm sở ba phải riêng trừ Hỷ, 4 tâm sở bất thiện chung, 4 tâm sở bất thiện từ chối, tổng cộng là có 20 tâm sở; tâm sân thứ hai vì có xúi giục nên thêm hai tâm sở Dã dượi, Buồn ngủ nữa tổng cộng là 22 tâm sở.
...
Thuận Pháp ghi chép phỏng theo bài giảng của Sư Khánh Hỷ, tại Khóa thiền Vipassana, chùa Huyền Không, tháng 7 năm 2012.