Thế
giới Phật Giáo hướng mắt nhìn về Ấn Độ với sự trông chờ sự hồi sinh của Phật
Giáo ngay chính mảnh đất đã sinh ra Phật Giáo hơn 25 thế kỷ trước. Vào thế kỷ
20, Phật Giáo được phát triển mạnh mẽ trên hầu hết các nước trên thế giới,
nhưng tại quê hương của nó, Đạo Phật là sự mờ nhạt của quá khứ sáng chói nào
đó. Người Ấn Độ không còn được biết đến Đức Phật và đạo Phật như thế nào. Họ
chỉ biết là Đức Phật (Lord Buddha) là hiện thân của thần Vishnu trong đạo Hindu
như huyền thoại như sự tuyên truyền của các giáo sĩ Hindu mà thôi, đồng nghĩa
với việc Đức Phật là một vị thần của Bà La Môn giáo. Len lỏi ở đâu đó xa xôi
hẻo lánh, Phật Giáo vẫn còn phảng phất hình bóng mờ nhạt nào đó.
Với
sự hồi sinh mạnh mẽ, Đạo Phật ở Ấn Độ đã trở mình thức dậy như một chú sư tử
rống lên sau một giấc ngủ dài. Tiến sĩ
Ambedkar, một danh hiệu được giới Phật tử biết đến như là một sự hiện thân của
một vị Bồ Tát, ngài đã dóng lên tiếng chuông chánh pháp và khởi nguồn cho sự
hồi sinh của Đạo Phật ở Ấn Độ. Những đóng góp của ngài cho Phật Giáo Ấn Độ là
vô cùng vĩ đại nhất từ thời vua Ashoka. Cho nên, Ambedkar được xem là Ashoka
hiện đại[1].
Tiến
sĩ Ambekar là một người đã khởi xướng việc phục hưng Phật Giáo Ấn Độ ở thập
niên 30-60 của thế kỷ 20. Ngài đã đem Phật Giáo trở về Ấn Độ sau một thời gian
dài Phật Giáo vắng bóng trong xã hội Ấn Độ từ thế kỷ 12 vì sự triệt hạ của Đạo
Hồi. Ngài là luật sư, lãnh đạo chính trị, hoạt động Phật Giáo, triết gia, nhà
tư tưởng, nhân chủng học, sử gia, nhà hùng biện, nhà văn, kinh tế gia, học giả,
nhà phục hưng Phật Giáo Ấn Độ,… Câu nói thời danh của Ngài: “Con người nên luôn
nuôi dưỡng hoài bão đóng góp gì đó cho cuộc đời. Họ sẽ vượt lên như những gì họ
phấn đấu”[2]. Ngài được giới Phật Giáo Ấn Độ tôn trọng và thờ phụng như là một
Bồ Tát mặc dù chưa bao giờ Ngài nghĩ đến điều đó.
Ngài
tên là Bhimrao Ramji Ambedkar (14/04/1891 - 06/12/1956), viết tắt là B. R.
Ambebkar. Ngài sinh ra trong gia đình theo truyền thống Đạo Hindu (Bà La Môn
cách tân), thuộc giai cấp thấp. Ngài sinh tại làng Mhow, tỉnh Central Province ,
Ấn Anh (nay là bang Madhya Pradesh).
Cảm
nhận được sự khổ đau của sự đối xử phân biệt giai cấp gắt rao của xã hội Ấn Độ,
Ngài dùng cả cuộc đời mình để chống lại và chuyển hoá sự phân biệt đối xử đó.
Bản thân Ngài sinh ra trong gia đình thuộc giai cấp cùng đinh, đó là giai cấp
Dalit, một giai cấp thấp. Mặc dù, thời Đức Phật tại thế, Ngài đã không mệt mỏi
để truyền bá tư tưởng “Không có giai cấp trong nước mắt cùng mặn, trong máu
cùng đỏ”, nhưng sự phân biệt giai cấp mà đạo Bà La Môn đặt ra vẫn còn rõ nét
trong trái tim của người Ấn Độ. Chế độ giai cấp của đạo Hindu vẫn còn khắt khe,
bốn giai cấp vẫn còn hiện diện với nguyên đặc tính phân biệt trong đối xử xã
hội. Theo chủ thuyết Chaturvarnya đã phân ra bốn giai cấp như: Brahmin
(Brahmaṇa, giáo sĩ), Kshatriya (Khattiya, vua chúa), Vaishya (Vessa, thương
gia), và Shudra (Sudda, người hầu, nô lệ)[3]. Còn có một lớp người ngoài và
dưới bốn giai cấp, đó là Dalit, là tiện dân, nô lệ, không được chạm đến vì sự
dơ bẩn của họ (untouchable). Dalits bao gồm những người như công nhân da, người
quét đường, thợ thuộc da, người đánh giày, người lao động nông nghiệp, vận động
viên thể dục, người đánh trống, nhạc sĩ dân gian và những người thủ công mỹ
nghệ trên đường phố,…
Chính
sự phân biệt đó làm niềm vui cho những giai cấp trên và là sự khổ đau truyền
miên của những giai cấp thấp. Những quyền lợi cơ bản về mặt xã hội như: giáo
dục, giao thông, lễ bái, nước,… bị hạn chế tối đa. Họ, giai cấp thấp, bị khinh
rẻ và đối xử bất công, số phận của họ dính liền với sự nghèo cùng, đói khát, dơ
bẩn, bịnh tật truyền miên từ mấy chục ngàn thế hệ. Chính việc không được hưởng
sự giáo dục nên họ không thể phát triển tri thức, đó là lý do mà muôn đời họ
không thể đạt được sự hiểu biết căn bản của xã hội, nên họ mãi là người ngu dốt.
Họ chỉ biết sử dụng sự hoạt động của chân tay mà nuôi bản thân và gia đình, nên
họ mãi là người nô lệ cho giai cấp trên từ nhiều ngàn đời với biết bao thế
hệ.
Chứng
kiến và cảm nhận sự đối xử bất công và bị tước đi những quyền lợi dân chủ và
dân sự đó, chính bản thân ngài cũng nằm trong hoàn cảnh đó. Bản thân là đại học
giả, ngài đọc nhiều sách vở nên biết được khi xưa Đức Phật đã từng bác bỏ giai
cấp rồi. Vì thế, ngài áp dụng tinh thần của Phật Giáo vào việc kêu gọi cách
mạng giai cấp và làm sống dậy Phật Giáo Ấn Độ đã ngủ yên khá lâu. Từ tinh thần này, ngài đã làm sống dậy Phật
Giáo Ấn Độ và thổi vào xã hội Ấn Độ luồng gió mát an lành của Phật Giáo.
Bắt
đầu năm 1907, Ambedkar đã vượt qua kỳ thi tuyển của Đại Học Bombai (nay là
Mumbai) và trở thành sinh viên tiện dân đầu tiên bước vào cấp Đại Học. Sự thành
công này đã kích động Ngài trình bày về tiểu sử của Đức Phật trong một buổi lễ
cộng đồng. Đây là sự khởi đầu tiếp cận Phật Giáo của Ngài.
Năm
1913, Ambedkar nhận được học bổng du học tại Khoa Chính Trị Học, Đại học
Columbia, New York, Hoa Kỳ. Ngài đã hoàn thành và được trao bằng Tiến sĩ tại
đại học này. Ngài là người giai cấp thấp đầu tiên được nhận học bổng du học.
Chỉ một năm sau khi nhận học vị tiến sĩ, Ambedkar trở thành giáo sư của trường
Cao Đẳng Kinh Tế Thương Mại Sydenham, Bombai (1918).
Năm
1919, như một học giả hàng đầu Ấn Độ, Ambedkar đã được mời để làm chứng trước
Uỷ Ban Chuẩn Bị Luật Pháp cho Chính phủ Ấn Độ trong thời gian đòi quyền độc lập
từ sự cai trị của Anh Quốc. Tại buổi điều trần này, Ambedkar lập luận cho việc
bầu cử dành cho giai cấp Dalit và cộng đồng tôn giáo khác.
Năm
1920-1923, Ngài sang London
và hoàn tất luận án tiến sĩ thứ 2 tại đây.
Ngày
15/08/1947, Chính phủ Ấn Độ độc lập đã mời Ambedkar làm bộ trưởng Tư Pháp đầu
tiên và Ngài đã chấp nhận.
Ngày
29/08/1947, Ambedkar được bổ nhiệm làm Chủ tịch Uỷ Ban Soạn Thảo Hiến Pháp. Lúc
này, Ấn Độ mới được độc lập. Với cương vị này, ngài đã sử dụng cách nghị sự và
biểu quyết trong tăng đoàn thời Phật Giáo Nguyên Thuỷ đưa vào sinh hoạt Quốc
Hội.
Ngài
đã đưa vào trong việc soạn thảo hiến pháp những quyền tự do dân sự với công dân
bao gồm quyền tự do tôn giáo, bãi bỏ phân biệt đối xử giai cấp, quyền bình đẳng
cho phụ nữ,... Hiến pháp này đã được quốc hội lập hiến thông qua ngày
26/11/1949.
Lúc
biên soạn bộ luật Hindu Code Bill, ngài đã trình bày trước quốc hội rằng: Đức
Phật đã tuyên bố về sự công bằng và Đức Phật là người mạnh mẽ chống lại chế độ
giai cấp[4]. Ngài muốn đưa sự bình đẳng xã hội vào bộ luật này. Tuy nhiên, bộ
luật này đã không được thông qua theo như ý nguyện của ngài. Đó cũng là lý do
mà ngài không muốn tiếp tục làm việc trong chính phủ của thủ tướng Nehru (thủ
tướng đầu tiên của Ấn Độ độc lập). Dù không còn là thành viên, nhưng ngài vẫn
có sự ảnh hưởng lớn đến những quyết định của chính phủ.
Với
mong muốn hiểu sâu về những gì Đức Phật đã thuyết giảng, cuối thập niên 40
Ambedkar học thông thạo tiếng Pali để tìm hiểu Phật Giáo thông qua kinh tạng
Nikaya[5].
Phát
biểu về định hướng cuộc đời mình, ngài nói: “Tôi sinh ra trong Hindu nhưng
không chết trong Hindu”. Ngài đã tạo ra phong trào cải đạo vĩ đại từ Hindu sang
Phật Giáo. Từ năm 1930 đến khi qua đời, ngài đã diễn ra rất nhiều cuộc cải đạo
với qui mô lớn khoảng vài chục ngàn người tham gia mỗi lần.
Trong
những năm 1950, Ambedkar đã đến Tích Lan để tham dự hội nghị Phật Giáo Thế
Giới. Tại đây Ngài đã kêu gọi giai cấp thấp bản xứ nên cải đạo sang Phật Giáo.
Trong
bài viết của mình là "Đức Phật và tương lai của Tôn giáo của Ngài"
xuất bản năm 1950 trong tạp chí Society Mahabodhi, Ambedkar đã tóm tắt quan
điểm của ông về tôn giáo và Phật Giáo theo cách thức sau đây:
1.
Xã hội phải có trừng phạt pháp luật hoặc trừng phạt của đạo đức để giữ nó lại
với nhau. Nếu không có như vậy, xã hội tất bị xé ra manh mún.
2.
Tôn giáo tồn tại với sự kết hợp của lý trí. Đó là tên khác của khoa học.
3. Thật là thiếu xót nếu tôn giáo đề cập đến đạo
đức cơ bản, nhưng đạo đức cơ bản phải thừa nhận những điều cơ bản của tự do,
bình đẳng và tình thân.
4.
Tôn giáo không phải là thánh hóa hoặc thực hiện một đức tính thoát nghèo. [6]
Năm
1954, Ambedkar đã 2 lần đến Miến Điện dự Hội Nghị Tình Đoàn Kết Phật Tử Thế
giới Rangoon .
Năm
1955, Ambedkar thành lập Hiệp Hội Phật Giáo Ấn Độ (Bharatiya Bauddha
Mahasabha). Ngài đã dựng một tượng Phật trong ngôi đền ở đại lộ Dehru, gần
thành phố Pune [7] (Poona ).
Năm
1956, tháng Năm, một cuộc nói chuyện của Ambedkar có tiêu đề "Tại sao tôi
thích Phật Giáo và làm thế nào mang lại hữu ích cho thế giới trong hoàn cảnh
hiện tại" đã được phát sóng từ British Broadcasting Corporation, London.
Trong buổi nói chuyện Ambedkar nói: “Tôi thích Phật Giáo bởi vì Phật Giáo có ba
nguyên tắc kết hợp, mà không có tôn giáo nào khác có được. Đạo Phật dạy Prajna
(Trí Tuệ: sự hiểu biết để giải trừ mê tín và chủ nghĩa siêu tự nhiên), Karuna
(từ bi), và Samata (bình đẳng). Đây là những gì mà con người mong muốn để có
được cuộc sống đẹp và hạnh phúc. Ngay cả Thượng Đế cũng không có thể làm gì
được cho con nguơì”. [8]
“Tôn
giáo của Đức Phật là đạo đức. Phật Giáo bao trùm lấy đạo đức. Phật Giáo không
có nghĩa gì nếu không có đạo đức. Chắc chắn rằng Phật Giáo không tôn thờ Thượng
Đế. Thượng Đế ngự trị trong đạo đức. Những đạo đức gì Thượng Đế để vào trong
các tôn giáo khác là Phật Giáo”[9]. Ngay nhận định này, ngài đã đặt Phật Giáo
vào một vị trí như là yếu tố cốt lõi của các tôn giáo khác, đó là đạo đức tôn
giáo. Phật Giáo không có Thượng Đế quyền uy sáng tạo, hoạch định và lèo láy số
phận của con người. Phật Giáo là đạo đức.
Ngày
14/10/1956, tại Nagpur , Ambedkar đã tổ chức buổi lễ Quy y Tam
Bảo cho Ngài và 380.000 người[10]. Tại buổi lễ Ngài đã phát nguyện 22 điều thệ
nguyện của Ngài, trong đó có: Con không tin vào sự hiện thân của Thượng Đế, con
không tin Đức Phật là hiện thân của Thần Vishnu vì đó là sự tuyên truyền không
đúng, con không vi phạm những nguyên tắc và lời dạy của Đức Phật, con không cho
phép thực hiện bất cứ nghi lễ của những người Bà La Môn, con tin vào sự bình
đẳng của con người, con nổ lực để thiếp lập sự bình đằng, con thực hành Bát
Chánh Đạo của Đức Phật, con thực hành 10 Ba La Mật được truyền dạy từ Đức Phật,
con long trọng tuyên bố từ đây con hướng cuộc đời con theo giới luật của Đức
Phât và giáo pháp của Ngài,… [11]. Những điều này thể hiện niềm tin vững chắc vào
Phật Pháp và cũng thể hiện sự quyết tâm hành trì một cách mạnh mẽ. Đây cũng thể
hiện sự sáng tạo và cải cách trong lễ quy y của đạo Phật.
Để
có được ngày này, đó là một sự chuẩn bị rất kỷ lưỡng và chu đáo. Hàng ngàn
người theo lời kêu gọi của Ngài mà từ khắp nơi trở về Nagpur từ nhiều ngày trước. Họ tổ chức diễu
hành, múa hát để tỏ sự mừng vui như được sinh lại lần nữa. Họ sáng tác ra bài
hát dành cho ngày này và đồng ca với nhau bất tận ngày và đêm. Nhiều biểu ngữ
được dương lên và treo khắp các đường phố thành phố Nagpur như: “Đức Phật chiến thắng. Cha hiền
Ambebkar chiến thắng”, “Cuộc sống mới đã bắt đầu”, “Cha lành kêu gọi mọi người
hãy trở về với Đạo Phật”,…[12]
Ngày
hôm sau (15/10/1956), những người đến thành phố Nagpur quá trể, không tham dự được lễ Quy Y
hôm trước, con số này quá lớn, đến 100.000 người già trẻ[13]. Ngài Ambedkar
phải tổ chức thêm một lễ Quy Y Tam Bảo nữa cho họ và cầu thỉnh chư Tăng truyền
Tam Quy Ngũ Giới cho những người này. Như vậy, tổng cộng là 460.000 người đã
phát nguyện trở thành Phật tử trong thời gian này.
Sau
ngày Quy Y, ngài Ambedkar sang Kathmandu tham dự Hội nghị Phật Giáo Thế giới,
tại Nepal .
Tại đây ngài đã thuyết trình chủ đề “Đức Phật và Karl Marx”.
Như
lời đã hứa (năm 1951) là viết một quyển sách diễn giải về Phật Pháp một cách dễ
hiểu cho đại đa số quần chúng, lúc cuối đời ngài đã làm việc cực lực để hoàn
thành quyển sách đó. Tác phẩm đó có tên là Đức Phật và Giáo Pháp của Ngài
(Buddha and His Dhamma). Ngài hoàn thành quyển sách ấy trong đêm 5/12. Người ta
phát hiện ra ngài đã qua đời sáng ngày 6/12/1956 tại tư gia ở New Delhi (thủ đô Ấn Độ), hưởng thọ 64
tuổi[14]. Tác phẩm này được xuất bản vào kỷ niệm 2500 năm ngày Phật nhập Niết
Bàn (Mahaparinirvana) năm 1957 [15].
Sau
khi qua đời, ngài được chính phủ Ấn Độ dành sự thương tiếc và ghi nhớ công lao
của Ngài như: Một đài tưởng niệm được thành lập trong nhà của mình tại Delhi , 26 Alipur Road .
Ngài
được truy tặng danh dự cao nhất của Ấn Độ dân sự, các Ratna Bharat năm 1990.
Nhiều tổ chức công cộng được đặt tên để vinh danh Ngài, như Đại Học Mở Tiến Sĩ
Babasaheb Ambedkar ở Hyderabad, Đai Học Tiến sĩ B. R Ambedkar ở Andhra Pradesh,
Đại Học B. R Ambedkar ở Bihar , Viện Công Nghệ Quốc Gia Muzaffarpur Dr.B.R
Ambedkar ở Jalandhar, sân bay quốc tế Tiến Sĩ Babasaheb Ambedkar ở Nagpur. Một
bức chân dung chính thức của Ambedkar lớn được trưng bày trong tòa nhà Quốc hội
Ấn Độ. Ngày kỷ niệm ngày sinh của Ngài (ngày 14 tháng tư) và cái chết (06 tháng
12) và ngày Quy Y Tam Bảo (14 tháng 10), ít nhất là nửa triệu người tụ tập để
tỏ lòng kính trọng với người ở đài tưởng niệm của Ngài ở Mumbai. Đặc biệt ngày sinh nhật của Ngài được chính
phủ Ấn Độ công nhận là ngày Quốc Lễ được biết đến như Ambedkar Jayanti hoặc
Bhim Jayantivà toàn quốc được nghỉ lễ.
Ngài
đi các nơi và diễn thuyết và kêu gọi bãi bỏ giai cấp và truyền bá Phật Giáo.
Theo đó mà nhiều cuộc Quy y Tam Bảo quy mô lớn với ý nghĩa cải đạo từ Hindu
sang Phật Giáo, với số lượng vài chục ngàn người mỗi lần được tổ chức trong
nhiều nơi ở Ấn Độ thuở bấy giờ.
Bằng
những hoạt động không mệt mỏi, ngài đã kêu gọi tiện dân Ấn Độ cải đạo sang Phật
Giáo. Tính đến khi ngài qua đời, ¾ triệu người đã trở thành Phật tử, (tức là
750.000 người) và hàng tháng có hàng trăm, hàng ngàn người đã quy y[16]. Tính
đến năm 1961, số Phật tử là 3,250,227 người[17]. hơn ¾ trong số đó sinh sống
tại bang Maharashtra .
Từ
sự khơi nguồn của Ngài, Phật Giáo Ấn Độ đã và đang từng bước trở mình và phát
triển mạnh mẽ. Từng dòng người áo trắng (trang phục Phật tử ở đây) trong những
lễ hội rất thân thương gợi nhớ về một thuở xa xôi nào đó trong quá khứ, những
hình nầy từng quen thuộc trên mảnh đất đầy tâm linh này. Công đức đối với Phật
Giáo của Ngài Ambedkar là vô hạn, Ngài được tôn thờ như một Bồ Tát vĩ đại. Ngài
là danh nhân của thời đại, là đại hộ pháp, là Ashoka của thời nay. Phật tử
Ambedkar sẽ bất tử trong lòng mọi người.
By
Lệ Ngôn.
-o0o-
Chú
thích:
[1]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Windhorse Publications, 1986, page 13.
[2]
Ambedkar’s citation from Dr. Ambedkar: Life and Mission , trang 234.
[3]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Windhorse Publications, 1986, page 56.
[4]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Windhorse Publications, 1986, page 56.
[5]
Bellwinkel-Schempp, Maren (2004). "Roots of Ambedkar Buddhism in Kanpur ". in
Jondhale, Surendra; Beltz, Johannes. Reconstructing the World: B.R. Ambedkar
and Buddhism in India .
New Delhi : OUP.
tpage 221–244.
[6]
Ambedkar’s citation from Dr. Ambedkar: Life and Mission , trang.49.
[7]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Windhorse Publications, 1986, tr.77
[8]
R. M. Pal, Remembering Dr. Ambedkar ,tr. 2.
[9]
Dr Baba Saheb Ambedkar, Writings and Speeches, vol.1 (Bombay 1979), tr.57
[10]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi , 1986, tr.80
[11]
This was Ambedkar’s own figure, as given in his letter to Devapriya Valisinha dated 30 October 1956. The Maha
Bodhi (Calcutta ),
vol. 65, trang 226
[12]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi , 1986, page 80
[13]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi , 1986, page 80
[14]
Sangharakshita, Ambebkar and Buddhism, Motilal Banarsidass Publishers, New Delhi , 1986, page 12.
[15]
Sdd, trang 59.
[16]
Sdd, trang 13.
[17]
Sdd, trang 13.