Ngũ giới là cơ bản của con người, những người được sinh ra trong cõi người này, chắc chắn kiếp trước ít nhất đã có ngũ giới trong sạch và trọn vẹn. Thật vậy, nếu kiếp trước không có giới, phạm giới, thì kiếp hiện tại này chắc chắn không thể tái sinh được làm người như thế này!
Như vậy, đã được tái sinh làm
người, thì người ấy vốn dĩ có ngũ giới trong sạch đã được tích lũy từ kiếp quá
khứ.
(Tâm tục sinh của loài người và loài trời dục giới làm tâm quả đại thiện).
Trong kiếp hiện tại, nếu
người nào không có giới, phạm giới, làm mất phẩm chất cao quý của con người,
thì người ấy không chỉ lãnh chịu những hậu quả tai hại trong kiếp hiện tại, mà
còn phải chịu hậu quả tai hại trong nhiều kiếp vị lai, do ác nghiệp ấy cho quả
tái sinh trong cõi ác giới (địa ngục, atula, ngạ quỷ, súc sinh) chịu quả khổ
cho đến khi mãn quả ác nghiệp ấy, mới mong thoát khỏi cõi ác giới.
Trong kiếp hiện tại, nếu
người nào giữ gìn ngũ giới trong sạch và trọn vẹn là giữ gìn phẩm chất cao quý
của con người, thì người ấy không những hưởng được những quả báu tốt lành trong
kiếp hiện tại, mà còn hưởng được những quả báu tốt lành trong nhiều kiếp vị
lai, do nhờ thiện nghiệp ấy cho quả tái sinh trong cõi thiện dục giới (cõi
người, cõi trời dục giới) hưởng được mọi sự an lạc trong cõi ấy; đặc biệt còn
có thể tạo mọi pháp hạnh ba-la-mật để tạo duyên lành trên con đường giải thoát
khổ tử sinh luân hồi trong ba giới bốn loài nữa.
Ngũ giới là nền tảng cho các pháp hành thiền định và thiền tuệ.
----------
Nghi Thức Thọ Pháp-Hành-Thiền
Lễ thọ pháp-hành-thiền là
việc làm theo truyền thống từ thời kỳ Đức-Phật cho đến nay. Khi Đức-Phật còn
hiện hữu trên thế gian, các tỳ-khưu đền hầu Đức-Phật kính xin thọ
pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, rồi tìm nơi thanh vắng để thực
hành, hoặc đến xin thọ pháp-hành nơi vị Đại-trưởng-lão, hoặc Đại-đức, v.v..
Khi làm lễ thọ
pháp-hành-thiền, nếu hành-giả là cận-sự-nam, cận-sự-nữ nên làm lễ thọ tam-quy
và chánh-mạng-đệ-bát-giới (ājīvaṭṭhamakasīla) nghĩa là giới thứ 8 là
giới-chánh-mạng từ vị Thiền-sư.
Trước khi thọ tam-quy,
hành-giả nên làm lễ sám hối lỗi lầm của mình trước sự hiện diện vị Thiền-sư
chứng minh, để tránh mọi sự trở ngại, trong khi thực hành pháp-hành-thiền-tuệ
như sau:
1- Nghi Thức
Sám Hối
Hành-giả nên thành tâm sám
hối rằng:
- Kính bạch Ngài Đại-đức, xin
phép Ngài, con xin thành tâm sám hối những lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm đến
Đức-Phật, Đức-Pháp. Đức-Tăng, Tam-Bảo, cùng với các bậc Thầy tổ, cha mẹ,… từ
trước cho đến hiện-tại này. Kể từ nay về sau, con hết sức cố gắng thu thúc giữ
gìn không để tái phạm.
Kính xin Ngài chứng minh cho
con, và nhận biết những lỗi lầm của con. Bạch Ngài.
Do tác-ý thiện-tâm này, nên
tất cả mọi điều tai hại không xảy đến với con, và nguyện vọng thực hành
pháp-hành-thiền-tuệ cho được thành tựu. (Đảnh lễ 3 lần)
Ngài Đại-đức Thiền-sư khuyên
dạy:
- Này hành-giả! Con đã nhận
biết những lỗi lầm do cố ý hoặc vô ý phạm đến Đức-Phật, Đức-Pháp. Đức-Tăng,
Tam-Bảo, cùng với các bậc Thầy tổ, cha mẹ,… từ trước cho đến hiện-tại này.
Sư chứng minh và nhận biết sự
thành tâm sám hối, sửa chữa những lỗi lầm của con.
Vậy, kể từ nay về sau, con
phải nên cố gắng giữ gìn thân, khẩu, ý tránh không để tái phạm. Người nào đã
nhận biết được lỗi lầm của mình, rồi biết sám hối, sửa chữa đúng theo pháp luật
của Đức-Phật, thì người ấy chắc chắn sẽ tiến hoá mọi thiện-pháp trong giáo pháp
của Đức-Phật.
Hành-giả bạch rằng: “Sādhu!
Bhante, Sādhu! Lành thay! Lành thay! Bạch Ngài”.
2- Lễ Thọ Tam-Quy Và Chánh-Mạng Đệ Bát-Giới
Hành-giả đảnh lễ vị Thiền-sư
xong, rồi hành nghi lễ theo tuần tự như sau:
Lễ Sám Hối Tam-Bảo
* Lễ Sám Hối Đức-Phật-Bảo,
Uttamaṅgena
vande’haṃ,
Pādapaṃsuṃ
varuttamaṃ.
Buddhe yo khaliko
doso,
Buddho khamatu taṃ
mamaṃ.
Con hết lòng thành kính cuối
đầu đảnh lễ,
Bụi trần dưới bàn chân cao
thượng của Đức-Phật.
Lỗi lầm nào con đã phạm đến
Phật-bảo,
Cúi xin Phật-bảo xá tội ấy
cho con. (đảnh lễ).
* Lễ Sám Hối Đức-Pháp-Bảo,
Uttamaṅgena
vande’haṃ,
Dhammañca duvidhaṃ
varaṃ.
Dhamme yo khaliko
doso,
Dhammo khamatu taṃ
mamaṃ.
Con hết lòng thành kính cuối
đầu đảnh lễ,
Hai hạng Pháp-bảo: pháp-học
và pháp-hành,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến
Pháp-bảo,
Cúi xin Pháp-bảo xá tội ấy
cho con. (đảnh lễ).
* Lễ Sám Hối Đức-Tăng-Bảo
Uttamaṅgena
vande’haṃ,
Saṃghañca
duvidhuttamaṃ.
Saṃghe yo khaliko
doso,
Saṃgho khamatu taṃ
mamaṃ.
Con hết lòng thành kính cuối
đầu đảnh lễ,
Hai bậc Tăng-bảo: phàm-Tăng
và Thánh-Tăng,
Lỗi lầm nào con đã phạm đến
Tăng-bảo,
Cúi xin Tăng-bảo xá tội ấy
cho con. (đảnh lễ).
Bài Kệ Cầu Nguyện
Iminā
puññakammena,
Sabbe bhayā
vinassantu.
Nibbānaṃ
adhigantuṃ hi,
Sabbadukkhā
pamuccāmi.
Do nhờ năng lực thiện-tâm sám
hối này,
Cầu xin mọi tai hoạ hãy đều
tiêu diệt,
Mong chứng đắc Thánh-đạo,
Thánh-quả, Niết-bàn,
Cầu mong giải thoát mọi cảnh
khổ tái sinh.
* Lễ Thọ Tam-Quy Và
Ājīvaṭṭhamakasīla
Nếu một hành-giả (số ít) thì
đọc như sau:
Ahaṃ Bhante,
tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmianuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha
me Bhante.
Dutiyampi,
ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭhamaka-sīlaṃ dhammaṃ yācāmianuggahaṃ katvā,
sīlaṃ detha me Bhante.
Tatiyampi,
ahaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭhamaka-sīlaṃ dhammaṃ yācāmianuggahaṃ katvā,
sīlaṃ detha me Bhante.
* Nếu nhiều hành-giả (số
nhiều) thì đọc như sau:
Mayaṃ Bhante,
tisaraṇena saha ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ yācāmaanuggahaṃ katvā, sīlaṃ detha
no Bhante.
Dutiyampi, mayaṃ
Bhante, tisaraṇena saha ājivaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāmaanuggahaṃ katvā,
sīlaṃ detha no Bhante.
Tatiyampi,
mayaṃ Bhante, tisaraṇena saha ājīvaṭṭha-makasīlaṃ dhammaṃ yācāmaanuggahaṃ katvā,
sīlaṃ detha no Bhante.
Nghĩa:
- Kính bạch Đại-đức, Con xin
thọ trì tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới. Kính xin Ngài Đại-đức từ bi hướng
dẫn tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới cho con. Bạch Ngài.
- Kính bạch Đại-đức, Con xin
thọ trì tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới. Kính xin Ngài Đại-đức từ bi hướng
dẫn tam-quy cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới cho con, lần thứ nhì. Bạch Ngài.
- Kính bạch Đại-đức, Con xin
thọ trì tam-quy cùng
chánh-mạng-đệ-bát-giới. Kính xin Ngài Đại-đức từ bi hướng dẫn tam-quy
cùng chánh-mạng-đệ-bát-giới cho con, lần thứ ba. Bạch Ngài.
(Hành-giả đảnh lễ 3 lần)
Vị Thiền-sư hướng dẫn
Ths: Yamahaṃ
vadāmi, taṃ vadehi.
(Sư hướng dẫn từng câu nào,
con nên đọc theo đúng từng câu ấy).
Hg: Āma. Bhante.
(Dạ, xin vâng. Bạch Ngài).
Ths: Namo tassa Bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa! (3 lần).
* Thọ Phép Quy-Y Tam-Bảo
- Buddhaṃ saraṇaṃ
gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Phật,
- Dhamaṃ saraṇaṃ
gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Pháp,
- Saṃghaṃ saraṇaṃ
gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Tăng,
- Dutiyampi
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Phật, lần thứ nhì,
- Dutiyampi Dhammaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Pháp, lần thứ nhì,
- Dutiyampi
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Tăng, lần thứ nhì,
- Tatiyampi
Buddhaṃ saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Phật, lần thứ ba,
- Tatiyampi Dhamaṃ
saraṇaṃ gacchāmi,
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Pháp, lần thứ ba,
- Tatiyampi
Saṃghaṃ saraṇaṃ gacchāmi.
Con đem hết lòng thành kính
xin quy y Tăng, lần thứ ba.
Ths: Tisaraṇagamanaṃ
paripuṇṇaṃ.
(Phép quy y Tam-Bảo trọn vẹn bấy nhiêu)
Hg: Āma. Bhante.
(Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài).
* Thọ trì Ājīvaṭṭhamakasīla
1- Pāṇātipātā
veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa sự sát sinh.
2- Adinnādānā
veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa sự trộm cắp.
3- Kāmesu
micchācārā veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa sự tà dâm.
4- Musāvādā
veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa sự nói dối.
5- Pisuṇavācā
veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa nói lời chia rẽ
6- Pharusavācā
veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa nói lời thô tục.
7- Samphappalāpā
veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa nói lời vô ích.
8- Micchājīvā
veramaṇisikkhāpadaṃ samādiyāmi.
Con xin thọ trì điều giới, có
tác ý tránh xa cách sống tà mạng.
Tisaraṇena saha
ājīvaṭṭhamakasīlaṃ dhammaṃ sādhukaṃ katvā, appamādena sampādetha.
(Các con đã thọ trì phép quy
y Tam-Bảo cùng với chánh-mạng-đệ-bát-giới (ājīvaṭṭhamakasīla) xong, các con nên
cố gắng giữ gìn cho được trong sạch và trọn vẹn, để
làm nền tảng cho mọi
thiện-pháp phát sinh, bằng pháp không thất niệm, thực hành pháp-hành-tứ-niệm-xứ.)
Hg: Āma,
Bhante. (Dạ, xin vâng. Kính bạch Ngài.
Ths:
Sīlena sugatiṃ yanti, sīlena bhogasampadā.
Sīlena nibbutiṃ yanti, tasmā sīlaṃ
visodhaye.
Chúng sinh tái sinh cõi trời,
nhờ giữ giới,
Chúng sinh đầy đủ của cải,
nhờ giữ giới,
Chúng sinh giải thoát
Niết-bàn, nhờ giữ giới,
Vậy, các con nên giữ giới,
cho trong sạch!
Hg: Sādhu!
Sādhu! Lành thay! Lành thay!
Sau khi đã thọ phép quy-y
Tam-Bảo cùng với ājīvaṭṭhamakasīla xong, tiếp theo hành-giả nên đọc 3 bài kệ
khẳng định quy-y Tam-Bảo rằng:
“Natthi me saraṇaṃ
aññaṃ,
Buddho me saraṇaṃ
varaṃ.
Etena
saccavajjena,
Hotu me
jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ
aññaṃ,
Dhammo me saraṇaṃ
varaṃ.
Etena
saccavajjena,
Hotu me
jayamaṅgalaṃ.
Natthi me saraṇaṃ
aññaṃ,
Saṃgho me saraṇaṃ
varaṃ.
Etena saccavajjena,
Hotu me
jayamaṅgalaṃ.”
Chẳng có nơi nào đáng cho con
nương nhờ,
Phật-bảo nơi nương nhờ cao
thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân
thật này,
Cầu mong cho con được hạnh
phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con
nương nhờ,
Pháp-bảo nơi nương nhờ cao
thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân
thật này,
Cầu mong cho con được hạnh
phúc cao thượng.
Chẳng có nơi nào đáng cho con
nương nhờ,
Tăng-bảo nơi nương nhờ cao
thượng của con,
Do nhờ năng lực của lời chân
thật này,
Cầu mong cho con được hạnh
phúc cao thượng.
Hoàn thành xong lễ thọ quy-y
Tam-Bảo cùng với ājīvaṭṭhamakasīla: chánh-mạng-đệ-bát-giới.
Nhận Xét Về Giới
Ājīvaṭṭhamakasīla
Hành-giả là bậc xuất gia
sa-di, tỳ-khưu hoặc người tại gia cận-sự-nam, cận-sự-nữ đều có giới-hạnh theo
phạm-hạnh của mình và còn phải nghiêm chỉnh thực hành Ājīvaṭṭhamakasīla:
Chánh-mạng đệ-bát-giới-này nữa, bởi vì giới này còn có tên là
Ādibrahmacariyakasīla: Giới-hành-phạm-hạnh-phần-đầu.
Chánh-mạng đệ-bát-giới nghĩa là chánh-mạng là giới thứ 8. Giới này
gồm có 8 giới như sau:
1- Giới có tác ý tránh xa sự
sát-sinh,
2- Giới có tác ý tránh xa sự trộm-cắp,
3- Giới có tác ý tránh xa sự
tà-dâm.
Ba giới này thuộc
vềchánh-nghiệp.
4- Giới có tác ý tránh xa sự nói-dối,
5- Giới có tác ý tránh xa sự
nói lời chia-rẽ,
6- Giới có tác ý tránh xa sự nói lời thô-tục,
7- Giới có tác ý tránh xa sự
nói lời vô-ích.
Bốn giới này thuộc về
chánh-ngữ
8- Giới có tác ý tránh xa
cách sống tà-mạng thuộc về chánh-mạng.
Như vậy, ājīvaṭṭhamakasīla:
chánh-mạng đệ-bát-giới hoặc ādibrahmacariyakasīla: giới-hành-phạm-hạnh-phần-đầu
gồm có 3 chánh: chánh-nghiệp, chánh-ngữ, chánh-mạng thuộc về phần-giới trong
pháp-hành bát-chánh-đạotam-giới, bởi vì 3 chánh này là 3 tâm-sở sinh riêng với
nhau (nānākadāci), mỗi tâm-sở đồng sinh với 8 dục-giới đại-thiện-tâm có
đối-tượng khác nhau.
Nhưng hành-giả thực hành
pháp-hành-thiền-tuệ, cho đến khi phát sinh Thánh-đạo-tâm hợp đủ 8 chánh:
chánh-kiến, chánh-tư-duy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng, chánh-tinh-tấn,
chánh-niệm, chánh-định có đối-tượng Niết-bàn siêu-tam-giới trong
Thánh-đạo-lộ-trình-tâm. Khi ấy, chánh-ngữ, chánh-nghiệp, chánh-mạng là 3 tâm-sở
sinh chung với nhau (niyata ekato) trong Thánh-đạo-tâm thuộc về phần-giới trong
pháp-hành bát-chánh-đạo siêu-tam-giới.
Cho nên, hành-giả nên giữ gìn
ājīvaṭṭhamakasīla: chánh-mạng đệ-bát-giới hoặc ādibrahmacariyakasīla:
giới-hành-phạm-hạnh-phần-đầu hoàn toàn trong sạch và trọn vẹn để làm nền tảng
cho pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ.
3- Lễ Hiến Dâng Sinh-Mạng
* Lễ hiến dâng sinh mạng lên
Đức-Phật
Hành-giả thực hành
pháp-hành-thiền-định, hoặc pháp-hành-thiền-tuệ ở một mình nơi thanh vắng, phát
sinh sợ hãi, hoặc các hàng phi nhân đến quấy nhiễu, hoặc các loài thú dữ có thể
làm hại đến sinh mạng của mình.
Để tránh khỏi những trở ngại
cho việc thực hành pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ, hành-giả nên
làm lễ hiến dâng sinh mạng của mình lên Đức-Phật, trước khi thực hành
pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ.
Trong bộ Visuddhimagga:
Thanh-Tịnh-Đạo hướng dẫn đọc lời hiến dâng sinh mạng lên Đức-Phật rằng:
“Imā’haṃ Bhagavā,
attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi.” (3 lần,
rồi đảnh lễ Đức-Phật)
- Kính bạch Đức-Thế-Tôn, con
xin thành kính hiến dâng sinh mạng của con lên Ngài.
Sau khi đã làm lễ hiến dâng
sinh mạng của mình lên Đức-Phật rồi, hành-giả nên phát sinh đức tin trong sạch
nơi Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, đó là thiện-pháp phát sinh.
Vì vậy, sinh mạng của
hành-giả được an toàn, hành-giả thực hành pháp-hành-thiền-định hoặc
pháp-hành-thiền-tuệ được thuận lợi, tiến hoá trong mọi thiện-pháp.
Đức-Phật dạy rằng:
“Dhammo have
rakkhati dhammacāriṃ,..”
Thật vậy, thiện-pháp hộ trì
người hành pháp.
* Lễ Hiến Dâng Sinh Mạng Đến
Thiền-Sư
Hành-giả ban đầu thực hành
pháp-hành-thiền-định hoặc pháp-hành-thiền-tuệ cần phải nương nhờ nơi vị
Thiền-sư thông hiểu rành rẽ về pháp-học Phật-giáo và có đầy đủ kinh nghiệm về
pháp-hành Phật-giáo, nhất là pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ.
Để cho vị Thiền-sư tận tâm
chỉ dạy tỉ mỉ các đề-mục- thiền-định, để hành-giả thực hành
pháp-hành-thiền-định, và các đối-tượng-thiền-tuệ là tất cả mọi sắc-pháp, mọi
danh-pháp thuộc về chân-nghĩa-pháp (paramatthadham-ma), để thực hành
pháp-hành-tuệ.
Cho nên, hành-giả nên làm lễ
hiến dâng sinh mạng của mình đến vị Thiền-sư.
Trong bộ Visuddhimagga:
Thanh-Tịnh-Đạo, hướng dẫn đọc lời hiến dâng sinh mạng đến vị Thiền-sư rằng:
“Imā’haṃ Bhante,
attabhāvaṃ tumhākaṃ pariccajāmi.” (3 lần, rồi đảnh lễ Ngài)
- Kính bạch Ngài Đại-đức, con
xin thành kính hiến dâng sinh mạng của con đến Ngài.
Sau khi đã làm lễ hiến dâng
sinh mạng của mình đến vị Thiền-sư rồi, hành-giả tỏ ra là người đệ tử dễ dạy,
biết vâng lời dạy dỗ của vị Thiền-sư ấy([16]), trong suốt thời gianthực hành.
* Lễ Thọ Pháp-Hành-Thiền-Tuệ
Phật-giáo gồm có 3 pháp:
- Pháp-học Phật-giáo đó là
theo học Tam-tạng pāḷi và Chú-giải pāḷi gồm tất cả lời giáo huấn của
Đức-Phật.
- Pháp-hành Phật-giáo đó là
pháp-hành-giới, pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ.
- Pháp-thành Phật-giáo đó là
4 Thánh-đạo, 4 Thánh-quả và Niết-bàn.
Để tỏ lòng tôn kính Pháp-bảo,
hành-giả cần phải làm “Lễ cầu pháp-hành,” với vị Thiền-sư, nên đọc câu:
“Nibbānassa me Bhante, sacchikaraṇatthāya samathavipassanākammaṭṭhānaṃ
detha.” (3 lần, đảnh lễ)
- Kính bạch Ngài Đại-đức,
kính xin Ngài từ bi tế độ hướng dẫn, chỉ dạy cho con pháp-hành-thiền-định và
pháp-hành-thiền-tuệ, để thực hành hầu mong chứng ngộ Niết-bàn, giải thoát khổ
sinh. Bạch Ngài.
Sau khi hành-giả lễ cầu
pháp-hành xong, vị Thiền-sư tận tâm chỉ dạy về pháp-hành-thiền-định và pháp-hành-thiền-tuệ
cho hành-giả.
* Cúng-Dường Tam-Bảo Và Lời
Phát-Nguyện
Cúng-dường Tam-Bảo là
cúng-dường Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo là nơi quy-y nương nhờ đối
với các hàng thanh-văn đệ tử, để tỏ lòng tôn kính ngôi Tam-Bảo, hằng ngày đêm,
các hàng thanh-văn đệ tử thường lễ bái, cúng-dường đến ngôi Tam-Bảo.
Đức-Phật dạy cách cúng-dường:
- Amisapūjā: Cúng-dường bằng
phẩm vật, …
-Paṭipattipūjā: Cúng-dường
bằng pháp-hành: pháp-hành-thiền-định, pháp-hành-thiền-tuệ,…
Trong 2 cách cúng-dường,
Đức-Phật tán dương ca tụng paṭipattipūjā là cao thượng hơn cả.
Để lòng tôn kính
Đức-Phật-bảo, Đức-Pháp-bảo, Đức-Tăng-bảo, hành-giả thành kính cúng-dường bằng
pháp-hành-thiền-tuệ lên ngôi Tam-Bảo, đọc bằng lời như sau:
* Imāya
dhammānudhammapaṭipattiyā
Buddhaṃ pūjemi.
Con đem hết lòng thành kính
cúng-dường Đức-Phật-bảo bằng pháp-hành-thiền này,
* Imāya
dhammānudhammapaṭipattiyā
Dhammaṃ pūjemi.
Con đem hết lòng thành kính
cúng-dường Đức-Pháp-bảo bằng pháp-hành-thiền này,
* Imāya
dhammānudhammapaṭipattiyā
Saṃghaṃ pūjemi.
Con đem hết lòng thành kính
cúng-dường Đức-Tăng-bảo bằng pháp-hành-thiền này.
Lời Phát Nguyện
* Addhā imāya
paṭipattiyā jāti-jarā-maraṇamhā
parimuccissāmi. (3 lần).
Chắc chắn, con sẽ giải thoát
khỏi khổ sinh, lão, tử bằng pháp-hành-thiền này.
Như vậy, mục đích cứu cánh
của hành-giả thực hành pháp-hành-thiền-tuệ cốt yếu là chứng ngộ Niết-bàn giải
thoát khổ tử sinh luân hồi trong 3 giới 4 loài.
(Xong nghi thức thọ
pháp-hành-thiền)
Tỳ-khưu Hộ Pháp.