Sống
trên đời, với từ tâm, con người chúng ta có thể nâng đỡ, tha thứ cho nhau mọi
lỗi lầm. Tuy nhiên, với quy luật nghiệp quả, rất đơn giản là thiện nghiệp thì
cho quả lành, bất thiện nghiệp thì cho quả dữ. Như vậy, từ tâm cần phải được đi
cùng với trí tuệ, để ta cùng dẫn dắt nhau gặt hái quả lành, chứ không phải cùng
dắt díu nhau đi vào cõi dữ. Từ tâm đi cùng với sự bao che, bao biện các bất
thiện nghiệp của nhau hóa ra bằng ngàn lần hại nhau. Do vậy, ta hãy cùng tìm
hiểu sự thật về nghiệp quả của việc tái lập Ni đoàn.
Tăng
Bảo bao gồm hội chúng Tỳ-kheo, hội chúng Tỳ-kheo-ni từ lúc Đức Phật chuyển pháp
luân cho nhóm năm vị Koṇḍañña (Kiều-Trần-Như) đến lúc chấm dứt Giáo
Pháp. Ngày nay, do vô thường mà hội chúng Tỳ-kheo-ni không còn nữa. Tứ chúng (Tăng,
Ni, Cận sự nam, Cận sự nữ) nay chỉ còn có ba (Tăng, Cận sự nam, Cận sự nữ) vì
chư Tỳ-kheo-ni đã không thể duy trì hệ thống truyền thừa của mình theo các quy
định của Đức Phật về phép xuất gia và thực hành giới Tỳ-kheo-ni.
Sự
xuất hiện Ni đoàn trên thế gian không phải là một điều dễ dàng hay tất yếu. Bà
nữ thánh Tu-đà-hoàn Mahāpajāpati Gotamī (Kiều-Đàm-Di,
dì mẫu của
Đức Thế Tôn) và sau đó là Đại Đức Ānanda đều đã 3 lần thỉnh cầu Đức Phật “người
nữ có thể đạt được sự xuất gia rời nhà sống không nhà trong Pháp và Luật đã
được đức Như Lai công bố” đều không thành tựu. Và Đại Đức Ānanda phải nghĩ “có
lẽ ta nên cầu xin đức Thế Tôn việc người nữ rời nhà xuất gia sống không nhà
trong Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố bằng một phương thức khác?”.
Cuối cùng chính vì nguyên nhân người nữ có khả năng đắc thánh và vì công đức
của dì mẫu Gotamī mà đức Phật quyết định thành lập Ni đoàn.
Cung
kính tuân thủ tám Trọng Pháp trọn đời là điều kiện tiên quyết để Ni Đoàn xuất
hiện trên thế gian. Vì tám Trọng Pháp liên hệ đến cả Pháp và Luật nên đã được
kết tập đầy đủ và rõ ràng cả trong Tạng Kinh (Tăng Chi Bộ Kinh – Chương Tám
Pháp – Kinh Mahāpajāpati Gotamī (AN 8.51)) lẫn Tạng Luật (Tiểu Phẩm – Chương
Tỳ-kheo-ni). Trong đó, quy định quan trọng nhất liên quan đến sự truyền thừa
của Tỳ-kheo-ni là phải xuất gia trước hai hội chúng, Tăng và Ni.
Cô
ni tu tập sự (sikkhamānā) đã thực hành sự học tập về sáu pháp trong hai năm nên
tầm cầu sự tu lên bậc trên ở cả hai hội chúng. Đây cũng là pháp cần được trọng
vọng, cung kỉnh, tôn kính, cúng dường, và không được vi phạm cho đến trọn đời.
(Tám Trọng Pháp - điều thứ 6)
Sự
thành lập Ni đoàn đã được đức Phật tiến hành qua hai giai đoạn.
1.
Bà Gotamī được tu lên bậc trên, Tỳ-kheo-ni,
bằng cách thọ trì 8 Trọng Pháp của đức Thế tôn. Bà là Tỳ-kheo-ni đầu tiên xuất
hiện trong giáo pháp của đức Thế tôn.
2.
Sự xuất gia Tỳ-kheo-ni của 500 người nữ cư sĩ dòng họ Sakya trước Tăng chúng vì
bà Gotamī không thể đại diện cho Ni chúng được.
Sau
đó, đức Phật cũng hiện thực hóa sự xuất gia trước 2 hội chúng, học nữ trước Ni
chúng và Tỳ-kheo-ni (người đã xuất gia thành tựu trước hội chúng Tỳ-kheo-ni)
trước Tăng chúng bằng như quy định.
-
Này các Tỳ khưu, ta cho phép các Tỳ khưu được ban phép tu lên bậc trên đến các Tỳ-khưu-ni.
(Tạng Luật - Tiểu Phẩm - Chương Tỳ khưu Ni)
Bối
cảnh mà đức Phật cho phép những người nữ dòng Sakya chỉ tu lên bậc trên trước Tăng
chúng là sau 6 lần bác bỏ sự tồn tại của Ni đoàn trong Giáo Pháp
của Ngài, đức Phật quyết định thành lập Ni đoàn và trên thế gian
lúc đó có sự tồn tại của một vị tỳ-kheo-ni, đó là bà nữ Thánh Gotamī.
Và
từ hơn 2000 năm nay, chúng ta chẳng còn có một vị Tỳ-kheo-ni nào cả. Bối
cảnh đức Phật quyết định thành lập Ni đoàn này và bối cảnh
các Tỳ-kheo tái lập Ni chúng sau khi Ni
chúng được hình thành viên mãn và rồi vô thường, mất gốc thực sự là khác nhau
hoàn toàn.
Nếu
gượng ép tái lập Ni đoàn bằng cách cho người nữ xuất gia trực tiếp
với chư Tỳ kheo Tăng như đức Phật đã chỉ định cho trường hợp người nữ
dòng Sakya thì ta thiếu một Tỳ-kheo-ni
tồn tại từ trước cũng như chư Tăng không phải là đức Phật để có thể tự mình ra
quyết định này. Hơn nữa, các quy định về thông báo, đề nghị, tuyên ngôn Tăng sự
bằng tiếng Pāḷi mà đức Phật đã quy định cho lần xuất gia 500 người nữ Sakya
không hề được ghi chép lại trong tạng Luật. Nếu cho người nữ xuất gia trực
tiếp, chư Tăng phải tự biên, tự diễn Tăng sự phi pháp, phi luật này. Và trong
thực tế, đây lại là cách mà “Ni đoàn”
được tái lập trong lần truyền giới thứ hai trở về sau. Tất nhiên, Tăng sự phi
pháp, phi luật này không thể thành tựu.
[1340]
Bốn loại hành sự: hành sự công bố, hành sự với lời thông báo, hành sự với lời
thông báo đến lần thứ nhì, hành sự với lời thông báo đến lần thứ ba.
Bốn loại hành sự này bị hư hỏng vì bao nhiêu nguyên nhân?
-
Bốn loại hành sự này bị hư hỏng vì năm nguyên nhân: hoặc là vì sự việc, hoặc là
vì lời đề nghị, hoặc là vì lời thông báo, hoặc là vì ranh giới (sīmā), hoặc là
vì tập thể. (Vinaya Pitaka - Bộ Tập Yếu Parivāra - NĂM PHẦN)
Lại
nữa, đức Phật đã có quy định rõ ràng rằng “các Tỳ khưu được ban phép
tu lên bậc trên đến các Tỳ-khưu-ni”,
những người đã thành tựu sự tu lên bậc trên trước Ni chúng, chứ không phải
được ban phép tu lên bậc trên đến các nữ cư sĩ hay nữ đạo sĩ. Tỳ-kheo-ni và nữ
cư sĩ, nữ đạo sĩ tất nhiên là những hạng người khác nhau hoàn toàn.
Nếu
gượng ép tái lập Ni đoàn bằng cách cho xuất gia Tỳ-kheo-ni lần thứ
nhất với Ni đoàn Đại Thừa, lần thứ hai với Tăng đoàn Theravāda thì lại
vi phạm quy định ăn trộm Ni tướng và kẻ chuyển
sang ngoại đạo. Và đây chính là cách mà “Ni đoàn”
được thành lập trong lần truyền giới đầu tiên.
“Này
các Tỳ khưu, kẻ trộm tướng mạo (Tỳ-khưu)
chưa được tu lên bậc trên thì không nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc
trên rồi thì nên trục xuất.
Này
các Tỳ khưu, kẻ đã chuyển sang ngoại đạo chưa được tu lên bậc trên thì không
nên cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.
Này
các Tỳ khưu, kẻ làm chia rẽ hội chúng chưa được tu lên bậc trên thì không nên
cho tu lên bậc trên, đã được tu lên bậc trên rồi thì nên trục xuất.” (Tạng Luật
- Đại Phẩm - Chương Trọng Yếu (Mahākhandhakaṃ))
Để
đảm bảo Tăng sự được thành tựu, Đạo Phật Nguyên Thủy luôn luôn chỉ dùng đúng
Phật ngôn bằng tiếng Pāḷi. Vì tất cả các ngôn ngữ trên thế giới đều biến đổi
theo thời gian, nếu Tăng sự được phép tiến hành bằng các loại tiếng bản địa thì
Đức Phật sẽ chế định điều này và cũng sẽ xác định luôn bản dịch nội dung Tăng
sự cho ngôn ngữ ấy. Tất nhiên điều này không bao giờ xảy ra. Chính vì các quy
định, điều kiện, thủ tục, trình tự cụ thể cho các loại Tăng sự, đặc biệt là các
tuyên ngôn, đề nghị, thông báo của Tăng sự được Đức Phật dạy bằng tiếng Pāḷi đã
khiến Đại Thừa trở thành một tôn giáo mới. Cụ thể hơn, vì giới bổn Pātimokkha,
nghi thức Tăng sự, hình thức y phục, phương cách nuôi mạng, giáo lý, con đường
tu tập và mục đích chứng ngộ tối hậu của Nguyên Thủy khác biệt với Đại Thừa nên
Đại Thừa là ngoại đạo của Nguyên Thủy và Nguyên Thủy là ngoại đạo của Đại Thừa.
Bộ y thật sự là biểu tượng của đạo giáo, được bậc Đạo sư quy định bằng nhiều
điều luật khác nhau, mà bị biến hoại thì có giáo lý nào còn được nguyên vẹn? Ta
hãy thử hình dung hình ảnh bộ đội VN mặc quân phục của TQ thì sẽ hiểu rõ vai
trò của bộ y. Ta hãy nhìn bộ y mà đức Phật đắp thì mới hiểu được mức độ hòa
trộn của tín ngưỡng dân gian vào trong Đại Thừa.
Lại
nữa, mãi cho đến hạ thứ năm, sau sáu lần bác bỏ sự ra đời của Ni
đoàn, chỉ nhờ vào lời thỉnh cầu của ngài Ānanda với các yếu tố về người nữ có
thể đắc thánh và về công đức của bà dì mẫu là nữ thánh Nhập lưu Gotamī mà Đức
Phật mới quyết định thành lập Ni đoàn. Vì vậy có thể
nói rằng sự tồn tại của Ni đoàn trong Tăng bảo không phải là một điều bắt buộc
phải có, không có không được, nó chỉ là thứ yếu mà thôi. Do vậy, không có lý do
nào khiến Đức Phật phải dự trù tình huống phải làm mọi giá để nó được sống lại
trong tương lai sau khi nó vô thường một cách tự nhiên đúng theo cách của thời
suy giảm với thiện pháp.
“Này
Ānanda, nếu nữ nhân không đạt được sự xuất gia rời nhà sống không nhà trong
Pháp và Luật đã được đức Như Lai công bố, này Ānanda, Phạm hạnh có thể sẽ được
tồn tại lâu dài, Diệu Pháp (saddhamma) có thể tồn tại một ngàn năm.
Này
Ānanda, bởi vì nữ nhân đã xuất gia rời nhà sống không nhà trong Pháp và Luật đã
được đức Như Lai công bố, này Ānanda, giờ đây Phạm hạnh sẽ không tồn tại lâu
dài, này Ānanda, giờ đây Diệu Pháp sẽ tồn tại chỉ còn năm trăm năm.” (Tạng Luật
- Tiểu Phẩm - Chương Tỳ Khưu Ni)
Ở
đây, Diệu Pháp chính là sự hiện hữu toàn vẹn của pháp học, pháp hành, pháp
thành với đầy đủ lục thông và bốn tuệ phân tích.
Như
vậy thì hà cớ gì trong thời chúng sanh suy giảm đối với thiện pháp, không còn
bà Gotamī nữa, không còn sự tồn tại của Ni đoàn chánh truyền,
không có ai trong số ứng viên Tỳ-kheo-ni là người nữ
dòng Sakya hay thánh nhân gì cả, năng lực đắc thánh thì không thể bằng thời Đức
Phật nhưng “trí tuệ” tham, sân, si nhào nặn
giới luật, làm rối ren Giáo Pháp thì vượt trội, thế thì việc gì phải dựng đứng
lại cái đã làm suy giảm tuổi thọ của Diệu Pháp? Để Giáo Pháp diệt vong sớm hơn
chăng?
Trong
thực tế, với những ai muốn “tái lập” Ni đoàn Nguyên Thủy, họ cần phải bác bỏ
không phải chỉ tám Trọng Pháp mà còn cần phải biên soạn lại các điều học liên
quan đến sự tu lên bậc trên của người nữ. Trước tiên, họ cần phải xoá các quy
định về Tăng sự hư hỏng, Ni sư tế độ là ngoại đạo,
hội chúng Ni là ngoại đạo, tu lên bậc trên trước 2 hội chúng (chân
chánh), điều pārājika (trục xuất) thứ bảy (xu hướng theo kẻ bị phạt án treo).
Bên cạnh đó, họ phải quy định lại vấn đề về cô ni tu tập sự (học nữ) phải thực
hành viên mãn 6 pháp trong suốt 2 năm, “Ni sư Nguyên Thủy” không
cần đủ 12 năm thâm niên (hạ - vassa), “Ni sư Nguyên Thủy” có thể
tiếp độ hàng năm và tiếp độ hơn 1 tân “Tỳ-kheo-ni” mỗi năm để có thể gia Tăng
dân số nhanh chóng.
Sự
thực, chối bỏ tám Trọng Pháp (là “pháp cần được trọng vọng, cung kỉnh, tôn
kính, cúng dường, và không được vi phạm cho đến trọn đời”) có nghĩa là chối bỏ
Bậc Đạo Sư:
“Này
Ānanda, Pháp và Luật, Ta đã giảng dạy và trình bày, sau khi Ta diệt độ, chính
Pháp và Luật ấy sẽ là Ðạo Sư của các Ngươi.” (Kinh Trường Bộ - Kinh Ðại
Bát-Niết-Bàn)
Đức
Thế Tôn cũng như tất cả các chúng sanh không ai ép người nữ xuất gia trong Giáo
Pháp của Đức Thế Tôn. Tuy nhiên, để trở thành một Tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini
trong Giáo Pháp của Đức Thế Tôn thì cần phải tuân thủ các điều luật về sự xuất
gia, về sự sinh hoạt và tu học.
Không
thành tựu phép xuất gia theo Giới Luật của Đức Phật nhưng vẫn sinh sống bằng
danh xưng, bằng bộ y “Tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini” nên đó là sự lừa đảo, tà
mạng.
Tự
biên, tự diễn, tự nhào nặn các luật lệ riêng cho mình rồi tự xưng là
Tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini thì đó chính là kẻ ăn cắp Ni tướng.
“Và
này các Tỷ-kheo, thế nào là tà mạng? Lừa đảo, nói lời mê ly, hiện tướng, gian
trá, lấy lợi cầu lợi; như vậy, này các Tỷ-kheo, là tà mạng.” (Trung Bộ Kinh -
Đại Kinh Bốn Mươi (MN117))
Thực
ra, nhờ có nhóm các Tỳ-kheo chia rẽ khỏi Theravāda làm hội chúng Tỳ-kheo Nguyên
Thủy mà các “Tỳ-kheo-ni” Nguyên Thủy thời hiện đại mới “thành tựu” sự tu lên
bậc trên.
“Bạch
ngài, có điều nói rằng: ‘Sự chia rẽ hội chúng, sự chia rẽ hội chúng.’ Bạch
ngài, cho đến như thế nào thì hội chúng bị chia rẽ?”
-
“Ở đây, này Upāli, các Tỳ khưu tuyên bố phi Pháp là ‘Pháp;’
tuyên
bố Pháp là: ‘Phi Pháp;’
tuyên
bố phi Luật là: ‘Luật;’
tuyên
bố Luật là: ‘Phi Luật;’
tuyên
bố điều đã không được giảng, không được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã được
giảng, đã được nói bởi đức Như Lai;’
tuyên
bố điều đã được giảng, đã được nói bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã không được
giảng, không được nói bởi đức Như Lai;’
tuyên
bố điều đã không được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã được thực hành bởi
đức Như Lai;’
tuyên
bố điều đã được thực hành bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã không được thực hành bởi
đức Như Lai;’
tuyên
bố điều không được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã được quy định bởi đức
Như Lai;’
tuyên
bố điều được quy định bởi đức Như Lai là: ‘Điều đã không được quy định bởi đức
Như Lai;’
tuyên
bố vô tội là: ‘Phạm tội;’
tuyên
bố phạm tội là: ‘Vô tội;’
tuyên
bố tội nhẹ là: ‘Tội nặng;’
tuyên
bố tội nặng là: ‘Tội nhẹ;’
tuyên
bố tội còn dư sót là: ‘Tội không còn dư sót;’
tuyên
bố tội không còn dư sót là: ‘Tội còn dư sót;’
tuyên
bố tội xấu xa là: ‘Tội không xấu xa;’
tuyên
bố tội không xấu xa là: ‘Tội xấu xa.’
Do
mười tám sự việc này, các vị ấy tách ra và tách rời hẳn, chúng thực hiện lễ
Uposatha riêng rẽ, chúng thực hiện lễ Pavāraṇa riêng rẽ, chúng thực hiện hành
sự của hội chúng riêng rẽ. Này Upāli, cho đến như vậy thì hội chúng bị chia rẽ.
(Tạng Luật - Tiểu Phẩm - Chương Chia Rẽ Hội Chúng)
Như
vậy, những tỳ-kheo đã cho tu lên bậc trên những nữ đạo sĩ, nữ cư sĩ và những kẻ
đã chuyển sang ngoại đạo trộm tướng mạo (Tỳ-khưu-ni),
đã làm viên mãn nghiệp chia rẽ Tăng bằng hành sự riêng rẽ phi pháp. Cộng nghiệp
với những kẻ đó là những ai tùy hỷ với hành sự ấy.
Thế
Nào Là Mục Đích Xuất Gia Trong Giáo Pháp Của Đức Thế Tôn?
Để
thành tựu Tỳ-kheo-ni thì cần hội đủ các tiêu chuẩn về nội thân và lễ xuất gia thành
tựu. Để thành tựu mục đích tột cùng là sự giải thoát (cho cả tại gia lẫn xuất
gia) thì cần phải tu tập miên mật nghiêm túc Giới, Định, Tuệ. Bằng cách xem
thường Phật, Pháp, Tăng, phớt lờ Giới luật chỉ để nhằm thỏa mãn danh xưng, bản
ngã rằng ta đây cũng thực hành Giới hạnh, Phạm hạnh, các “Tỳ-kheo-ni,
sadini” tân thời đã trở thành những kẻ ngoại đạo tà mạng, những đứa
con phi pháp, vô thừa nhận.
Sự giải thoát, chấm dứt
khổ sanh tử luân hồi không phải là độc quyền của người xuất gia trong Giáo Pháp
của Đấng Chiến Thắng. Trong thời Đức Phật, có hàng triệu vị cận sự nam, cận sự
nữ cư sĩ tại gia là các bậc thánh Nhập lưu, Nhất lai, Bất lai. Như vậy, danh
xưng “tỳ-kheo-ni, học nữ, sadini” không giúp được gì cho
mục đích giải thoát khỏi sanh tử luân hồi mà chính sự thực hành viên mãn tam
học Giới, Định, Tuệ sẽ giúp người tại gia hay xuất gia thành tựu mục đích này.
“Với người ác giới, này các Tỷ-kheo, với người phá giới,
chánh định do vậy bị phá hoại. Khi chánh định không có mặt, với người chánh
định bị phá hoại, như thật tri kiến do vậy bị phá hoại. Khi như thật tri kiến
không có mặt, với người như thật tri kiến bị phá hoại, nhàm chán, ly tham do
vậy bị phá hoại. Khi nhàm chán ly tham không có mặt, với người nhàm chán ly
tham bị phá hoại, giải thoát tri kiến do vậy bị phá hoại.
Với
người có giới, này các Tỷ-kheo, với người gìn giữ giới, chánh định do vậy được
đầy đủ. Do chánh định có mặt, với người chánh định được thành tựu, như thật tri
kiến do vậy được thành tựu. Do như thật tri kiến có mặt, với người như thật tri
kiến có mặt, nhàm chán, ly tham do vậy được thành tựu. Do nhàm chán, ly tham có
mặt, với người nhàm chán ly tham được thành tựu, giải thoát tri kiến do vậy
được thành tựu.” (Tăng Chi Bộ - Chương V - Kinh Ác Giới)
Tuy
nhiên, vì lòng tham với danh xưng nên bằng nỗ lực (tà tinh tấn) của cái tâm làm
nô lệ cho các phiền não tham, sân, si, các “tỳ-kheo-ni, học nữ,
sadini” tân thời đã chối bỏ bậc Đạo sư, chà đạp giới luật, ăn cắp Ni
tướng, sinh sống tà mạng, họ đã tự mình chặt đứt con đường giải thoát của chính
mình.
Vì
bản chất của sự việc phi pháp này đã chỉ ra một con đường duy nhất dành cho
những ai tham gia và ủng hộ nó là cõi dữ nên không thể có một sự biện hộ chân
chánh nào có thể dành cho họ để có thể nói rằng vì muốn phát triển giáo pháp,
vì muốn gầy dựng lại truyền thống tốt đẹp của Đạo Phật, vì muốn được giải thoát,
họ buộc phải tái lập lại Ni đoàn. Nếu không thể
biện hộ được những điều đó thì sự đấu tranh cho danh xưng “Tỳ-kheo-ni,
học nữ, sadini” có ý nghĩa gì ngoài mục đích khoác lác, lừa đảo và kiếm ăn
tà mạng?
Một
kẻ sống dối trá, ăn cắp Ni tướng, trộm cắp miếng
cơm của đàn na tín thí thì sao có thể có tư cách truyền tam quy, ngũ giới cho
một người cư sĩ sống chân chánh? Một người có 3 giới có tư cách truyền 5 giới
cho người khác được chăng? Họ có xứng đáng để người Phật tử đứng chắp tay hay
không chứ đừng nói gì đến việc truyền giới.
Con
người rồi ai cũng phải chết. Vấn đề mà chúng ta cần phải biết là vì nguyên nhân
nào mà sau cái chết chúng ta sẽ đi lên cõi lành hay đi xuống cõi dữ. Và đức
Phật đã chỉ rõ bằng cách nào, bằng nguyên nhân nào mà ta đi xuống cõi dữ.
“Ta tuyên bố cho các Thầy, này các Tỷ-kheo, Ta nói rõ cho các
Thầy, này các Tỷ-kheo, với một người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh,
đáng nghi ngờ những hành vi che đậy, không phải Sa-môn, nhưng tự nhận là
Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng tự nhận sống Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, ứ
đầy tham dục, tánh tình bất tịnh. Thật là tốt hơn bị một người lực sĩ với các
kềm sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn, mở miệng và nhét vào
miệng một hòn sắt nóng đang cháy đỏ, cháy đỏ rực, cháy đỏ lửa ngọn. Hòn sắt ấy
đốt cháy môi của người ấy, đốt cháy miệng, đốt cháy lưỡi, đốt cháy cổ họng, đốt
cháy bụng đem theo ruột non, ruột già và thoát ra ngoài từ phần ở dưới. Vì cớ
sao? Vì do nguyên nhân ấy, này các Tỷ-kheo, người ấy đi đến chết hay đi đến khổ
gần như chết, nhưng không vì nhân duyên ấy, sau khi thân hoại mạng chung, có
thể sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Nhưng này các Tỷ-kheo, khi một
người ác giới, theo ác pháp, sở hành bất tịnh... tánh tình bất tịnh, hưởng thọ
các đồ ăn khất thực do các Sát-đế-lỵ đại phú, các Bà-la-môn đại phú, do các gia
chủ đại phú, vì lòng tin cúng dường; Như vậy, này các Tỷ-kheo,
khiến cho vị ấy bất hạnh, đau khổ lâu dài, sau khi thân hoại mạng chung, sanh
vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.” (Tăng Chi Bộ - Chương
Bảy Pháp - Kinh Lửa)
Ở
đây, ta có thể thấy được sự khác biệt giữa người tu nữ giữ10 giới chân chánh và
người sadini, tỳ-kheo-ni sống tà mạng, hạ đẳng là một đằng đi lên thiện giới,
Niết bàn, một đằng đi xuống cõi dữ. Chúng ta cũng nên thương xót cho những
chiến binh của Ma Vương phiền não, những kẻ đang hết lòng hy sinh kiếp người
khó có được này để giành cho bằng được tấm vé định cư nơi khổ cảnh, những kẻ
đang hết lòng hại mình, hại người, hại Giáo Pháp.
Chùa
chiền của Tam bảo nhất định không thể là nơi nuôi dưỡng các ung nhọt của Giáo
Pháp ngang nhiên tồn tại trong nội thân mình. Dù các ung nhọt ấy còn nhỏ và ít,
nhưng rồi chúng sẽ sớm làm bại hoại Giáo Pháp vì “cái sảy nó nảy cái ung.” Vì
bản chất của sự thọ trì chỉ có 3 giới, chúng sẽ làm mất lòng tin ở nơi những
người có ít lòng tin nơi Tam bảo, làm các Phật tử có trí khởi sanh lòng thương
hại vì sự thiếu trí và cả sự khinh bỉ vì sự tà mạng, hạ đẳng của chúng. Chúng
thực sự là những kẻ nội xâm trong Giáo Pháp của đức Phật.
Theo
quy luật của nghiệp, đã cúng dường đúng pháp là có phước, nhưng vấn đề là phước
ấy như thế nào?
“Tại đây, này Ananda, sau khi bố thí cho các loại bàng sanh,
cúng dường này có hy vọng đem lại trăm phần công đức.
Sau
khi bố thí cho những phàm phu theo ác giới, cúng dường này có hy vọng đem lại
ngàn phần công đức.
Sau
khi bố thí cho các phàm phu gìn giữ giới luật, cúng dường này có hy vọng đem
lại trăm ngàn lần công đức.
Sau
khi bố thí cho các người ngoại học đã ly tham trong các dục vọng, cúng dường
này có hy vọng đem lại trăm ngàn ức lần công đức.” (Trung Bộ Kinh - Kinh
Phân biệt cúng dường)
Như
vậy, ta có thể thấy rằng bố thí cho những kẻ tà mạng sẽ có phước báu lớn hơn bố
thí cho súc vật và nhỏ hơn so với cúng dường người Phật tử đang thọ trì 5 giới
hay những vị chứng đắc thiền định, đoạn trừ 5 triền cái (dục ái, sân, hôn trầm
- thụy miên, trạo cử - hối quá và hoài nghi).
Ví
như một người có trí khi buộc phải chọn lựa giữa thân thể và tài sản thì họ sẽ
chọn thân thể, khi buộc phải chọn giữa tính mạng và thân thể thì họ sẽ chọn
tính mạng. Cũng vậy, một người có trí sẽ từ bỏ bàn tay lỡ nhúng chàm và chọn
lấy con đường thiện giới cõi đời này và họ cũng biết rằng không ai có thể làm
thay đổi được quá khứ.
Sống
trên cõi đời này, có ai dám tự xưng rằng mình chưa bao giờ phạm sai lầm? Nhưng
có phải vì ta lỡ phạm sai lầm, vì sĩ diện tự ái, ta quyết định sẽ không quay
đầu và chọn mất mạng, sống lâu dài, thường trú trong cõi dữ? Những ai còn có
chút ít lý trí nhất định sẽ sám hối với Tam Bảo vì sự vô minh của mình và quay
về hộ trì Chánh Pháp. Con người chân chánh “chỉ đánh kẻ chạy đi chứ
không ai đánh kẻ chạy lại”, đơn giản là vì họ tôn
trọng những kẻ có bản lãnh, có trí và biết sống có lý trí.
Bộ
y của người tu nữ rất đẹp và cao thượng. Nhưng bộ y có được không đúng giới
luật thì chỉ đem lại khổ đau cho người chủ nhân của nó cũng như cho Chánh Pháp
mà thôi.
Đặc
biệt, trong giai đoạn gần đây, có nhiều tu nữ hay nữ cư sĩ, do không thân cận
các bậc thiện trí thức, thiếu hiểu biết kinh điển nên đã làm vỡ phép Tam Quy
bằng việc bác bỏ tám Trọng Pháp, ủng hộ và xuất gia sadini hay Tỳ-kheo-ni.
Tuy vậy, chúng ta vẫn luôn mong chờ họ quay lại vì chúng ta luôn mong họ có
được phước báu xuất gia cũng như mong Chánh Pháp mãi trường tồn.
- Người ngu biết mình ngu,
Nhờ
vậy thành có trí.
Người
ngu cho mình trí,
Thật
xứng gọi chí ngu. (PC 63)
- Nếu thấy bậc hiền trí,
Chỉ
lỗi và khiển trách,
Như
chỉ chỗ chôn vàng
Hãy
thân cận người trí!
Thân
cận người như vậy,
Chỉ
tốt hơn, không xấu. (PC 76)
- Những người hay khuyên bảo,
Ngăn
người khác làm ác,
Ðược
người hiền kính yêu,
Bị
người ác không thích. (PC 77)
- Chớ thân với bạn ác,
Chớ
thân kẻ tiểu nhân.
Hãy
thân người bạn lành,
Hãy
thân bậc thượng nhân. (PC 78)
- Người ác thấy là hiền.
Khi
ác chưa chín muồi,
Khi
ác nghiệp chín muồi,
Người
ác mới thấy ác. (PC 119)
- Người hiền thấy là ác,
Khi
thiện chưa chín muồi.
Khi
thiện được chín muồi,
Người
hiền thấy là thiện. (PC 120)
- Cả hai pháp, phi pháp,
Kết
quả không giống nhau;
Phi
pháp, dẫn địa ngục,
Pháp
đưa đến cõi lành. (Dhammika (Thera. 35))
- Dễ làm các điều ác,
Dễ
làm tự hại mình.
Còn
việc lành, việc tốt,
Thật
tối thượng khó làm. (PC 163)
Trích từ FB Chánh Pháp